Mỏ quạ: Loại cây hoang dại được dùng làm thuốc

Cành và lá cây Mỏ quạ

Mỏ quạ là một loại cây mọc hoang làm hàng rào ở nhiều nơi trong nước ta. Loài cây này được dùng từ lâu đời như một vị thuốc theo kinh nghiệm dân gian. Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, vàng da và ung độc. Lá có thể dùng cho tằm ăn và dùng chữa các vết thương phần mềm.

1. Mô tả dược liệu Mỏ quạ

Mỏ quạ còn có tên gọi là Hoàng lồ, Vàng lồ, Cây bướm, Sọng vàng, Gai vàng lồ, Gai mang, Móc câu. Tên khoa học là Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur., thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).

1.1. Hình thái

Cây nhỏ, thân mềm yếu nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khoẻ, có nhựa mủ trắng. Rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (do đó có tên Xuyên phá thạch, nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màu tro nâu (trên có nhiều bì khổng màu trắng). Thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây Mỏ quạ).

Cành và lá cây Mỏ quạ
Cành và lá cây Mỏ quạ

Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên. Nhấm có vị tê tê ở lưỡi. Cụm hoa hình đầu, đơn tính, khác gốc, mọc ở nách lá, màu vàng nhạt. Quả nạc hình cầu mềm hơi cụt ở đầu, khi chín màu vàng. Hạt nhỏ.

1.2. Phân bố

Loài này phân bố ở các nước nhiệt đới châu Á, Ðông Phi, châu Úc. Ở nước ta, cây mọc hoang ở đồi núi, ven đường và được trồng làm hàng rào từ Lào Cai, Vĩnh Phú đến Quảng Trị, Lâm Ðồng và Ðồng Nai.

2. Thu hái và bào chế

Thu hái quanh năm. Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bứt lá riêng. Còn dùng rễ, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẩu 30 – 50cm, phơi hay sấy khô. Vỏ ngoài màu vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơi tê tê.

Ngoài ra có thể dùng rễ và lá để nấu thành cao.

Quả của cây Mỏ quạ
Quả của cây Mỏ quạ

3. Thành phần hóa học

Rễ và lá chứa flavonoid, tanin pyrocatechic và acid hữu cơ. Hợp chất quan trọng nhất là Morin.

Năm 2018 phân lập được hai prenylisoflavone mới 3 ‘, 4’, 5-trihydroxy-8-prenyl-dihydrofuran [2, 3 ″: 7.6] isoflavone và 4 ‘, 5-dihydroxy-8-prenyl-dihydrofuran [2, 3: 12] từ lá Mỏ quạ.

4. Tác dụng dược lý

Chiết xuất từ tâm gỗ của cây Mỏ quạ là ứng cử viên đầy triển vọng như một phương pháp điều trị tự nhiên cho chứng viêm và tăng axit uric máu gây ra bệnh gút.

Chiết xuất từ rễ cây Mỏ quạ cũng có tác dụng ức chế virus Herpes Simplex 1 và 2.

5. Công dụng và liều dùng

5.1. Công dụng

Rễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, vàng da và ung độc. Lá có thể dùng chữa các vết thương phần mềm.

Ở Thái Lan, người ta còn dùng gỗ Mỏ quạ trị sốt mạn tính, làm thuốc bổ và trị tiêu chảy.

Theo kinh nghiệm dân gian, phụ nữ có thai không dùng được.

5.2. Liều dùng

12 – 40g dạng thuốc sắc. Cũng thường phối hợp với các vị thuốc khác. 

6. Bài thuốc kinh nghiệm

6.1. Chữa vết thương phần mềm

Lá Mỏ quạ tươi lấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương.

  • Nếu vết thương xuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rửa và thay băng 1 lần.
  • Thuốc rửa vết thương: dùng lá Trầu không nấu với nước (40g lá Trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội thêm vào đó 8g Phèn phi, hoà tan, lọc và dùng rửa vết thương). Sau 3 – 5 ngày đã đỡ, khi đó 2 ngày mới cần rửa và thay băng 1 lần.
  • Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốc như sau: lá Mỏ quạ tươi và lá Thòng bong hai vị bằng nhau, giã lẫn cả hai thứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay băng 1 lần. 3 – 4 ngày sau lại thay thuốc: lá Mỏ quạ tươi, lá Thòng bong, lá Hàn the (Desmodium heterophyllum DC.). Ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mới thay băng 1 lần để vết thương chóng lên da non.

Sau 2 – 3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây Cau (sao khô) 20g, phấn cây Chè (sao khô) 16g, Ô long vĩ (bồ hóng) 8g, Phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vẩy và tróc thì thôi.

6.2. Chữa lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu

Mỏ quạ 40g, dây Rung rúc 30g. Bách bộ và Hoàng liên ô rô, mỗi vị 20g sắc uống.

6.3. Chữa co giật

Lên cơn hằng ngày hay 3 – 4 ngày phát 1 lần: Dùng Mỏ quạ, hạt Cau, Thảo quả, mỗi vị 20g sắc uống.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*