Điều trị rò hậu môn theo YHCT

hậu môn

(Giang lậu)

1.  đại cương

Rò hậu môn là một bệnh khá phổ biến ở vùng hậu môn thường đứng sau trĩ. Bệnh do áp xe vùng hậu môn hoặc trĩ viêm mà xử lý không tốt sinh ra. Bệnh hay gặp ở nam giới, được biết từ thời Hyppocrate (cách đây 500 năm trước Công  nguyên).  ở Việt  Nam  đã  được  Đại  danh  y  Tuệ  Tĩnh  và  Hải  Thượng  Lãn Ông mô tả và có nhiều bài thuốc điều trị.

Rò hậu môn theo y học cổ truyền còn có tên giang lậu, trĩ lậu (rò do trĩ)  hoặc trĩ sang.

2.  Bệnh sinh, bệnh nguyên

Trong các y văn đều thống nhất nguyên nhân chủ yếu là thấp nhiệt uất kết ở giang môn làm cho khí huyết vận hành không thông xướng hoặc cơ thể khí huyết đã hư sẵn cho nên thấp nhiệt uất kết, kết hợp với khí huyết hư và không thông xướng, nung nấu mà sinh ra sưng, có mủ vì nuôi dưỡng kém nên xuất hiện loét thành lỗ, dần dần khoét sâu thành ống gây nên rò hậu môn.

3.  Phân loại

Dựa vào bệnh sinh, bệnh nguyên chia rò hậu môn có các thể sau:

  • Thể thấp nhiệt.
  • Thể âm hư nội nhiệt.
  • Thể trung khí bất túc.
  • Thể khí huyết lưỡng hư.
4.  Chẩn đoán rò hậu môn theo Y học hiện đại
  • Vùng hậu môn có lỗ rò chảy nước vàng hoặc nước mủ, số lượng lỗ rò có thể có 1-2 hoặc 3 lỗ.
  • Bơm hơi hoặc xanh methylen xác định được lỗ rò trong và đường rò.
5.  Phương pháp điều trị

Theo y học cổ truyền có 2 nguyên tắc điều trị phải kết hợp với nhau đó là: điều trị toàn thân (nội trị) và điều trị tại chỗ (ngoại trị).

5.1.  Điều trị toàn thân

Người ta thương dựa vào thể bệnh để điều trị.

5.1.1.  Thể thấp nhiệt
  • Triệu chứng: bệnh mới mắc hoặc đợt cấp; tại lỗ rò sưng, nóng, đỏ, đau, chảy nước vàng hoặc mủ đặc, sốt nóng, rêu lưỡi vàng nhớt, chất lưỡi đỏ, mạch hoạt sác.
  • Chẩn đoán:
    • Bát cương: thực nhiệt.
    • Nguyên nhân: thấp nhiệt.
  • Pháp điều trị: thanh nhiệt trừ thấp, giải độc, bài nùng, sinh cơ.
  • Bài thuốc: Thác lý tiêu độc tán
Sinh hoàng kỳ 12g Đương quy 12g
Tạo giác thích 12g Bạch truật 12g
Kim ngân hoa 16g Phục linh 16g
Cát cánh 12g Đảng sâm 16g
Bạch chỉ 8g Bạch thược 12g
Xuyên khung 8g
5.1.2.  Thể âm hư nội nhiệt
  • Triệu chứng: bệnh mắc lâu ngày, người gầy, da môi khô, lưỡng quyền đỏ, sốt về chiều, trong người háo nóng, đại tiện táo, tiểu tiện vàng, lỗ rò không nóng đỏ, chảy dịch mủ loãng hoặc ướt dính, lưỡi rêu vàng khô, chất lưỡi đỏ, mạch vô lực hoặc tế sác.
  • Chẩn đoán:

Bát cương: hư nhiệt Nguyên nhân: âm hư.

  • Pháp điều trị: dưỡng âm thanh nhiệt, bài nùng sinh cơ.
  • Bài thuốc: Thanh cốt tán gia giảm

Thạch cao              8g                          Ngân sài hồ          6g

Miết giáp                12g                        Hoàng liên           8g

Địa cốt bì                12g                        Cam thảo             4g

Tri mẫu                   12g                        Tần giao               8g Gia: đương quy 8g, hoàng kỳ 12g, thương truật 10g.

5.1.3.  Thể trung khí bất túc
  • Triệu chứng:  người  gầy,  mệt  mỏi, cơ  nhẽo,  lỗ  rò  thâm  ướt,  chảy  dịch  nhờn, không sưng nóng đỏ, ăn ít, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi nhạt bệu, mạch trầm tế.
  • Chẩn đoán:
    • Bát cương: lý hư.
    • Nguyên nhân: khí huyết hư.
  • Pháp điều trị: bổ khí ích huyết, bài nùng sinh cơ.
  • Bài thuốc: Bát trân gia vị

Đảng sâm               12g                        Thục địa                12g

Bạch truật              10g                        Đương quy          10g

Cam thảo               16g                        Xuyên khung      12g

Bạch linh               12g                        Bạch thược          12g Gia: hoàng kỳ 12g, tạo giác thích 8g, kim ngân 12g.

5.2.  Điều trị tại chỗ

Trong y học cổ truyền có nhiều vị thuốc, bài thuốc điều trị và các cách điều trị bệnh giang lậu.

5.2.1.  Cách thắt lỗ rò
  • ở đời nhà Minh, Trung Quốc: dùng sợi cỏ dại luồn qua 2 lỗ đường rò, rồi dùng thuốc thanh nhiệt khứ hủ sinh cơ, điều trị nửa tháng sợi cỏ tụt ra là khỏi, cách này sau này sử dụng trong thắt mổ lỗ rò.
  • Dùng 7-8 sợi chỉ luồn xuyên lỗ rò, mỗi ngày thắt một sợi sao cho sợi cuối vừa thắt hết chỗ lỗ rò.
5.2.2.  Cách khứ hủ sinh cơ

Kinh nghiệm gia truyền 1 (ông lang Trí, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng): dùng thạch tín chế thành que, đặt vào đường rò cho đến khi đường rò bị phá huỷ hoàn toàn.

Tai biến: sốt cao, vùng hậu môn sưng tấy, rất dễ nhiễm độc, do đó thạch tín không được dùng (Viện Y học cổ truyền VN đã nghiên cứu).

5.2.3.  Cách ngâm rửa
  • Dùng lá trầu không tươi, sắc đặc, ngâm vùng rò.
  • Theo đại danh y Tuệ Tĩnh: dùng phân ngựa trắng, giã nát với muối, mỗi thứ 1/2 đem sao nóng, đắp vào lỗ rò cho đến khi khỏi thì thôi (cách này chưa nghiên cứu).

Nói chung các cách chữa tại chỗ giới thiệu ở trên hiện nay không sử dụng được, do vậy ngày nay người ta dùng thắt hoặc mổ của y học hiện đại và dùng thuốc nội trị của y học cổ truyền.

Xin  giới  thiệu  một  phương  pháp  điều  trị  kết  hợp  y  học  cổ  truyền  với  y học hiện đại có kết quả tốt (đề tài nghiên cứu của bác sĩ CKII Phạm Văn Sơn) như sau:

  • Thuốc ngâm:

Lá trầu không             50g Phèn phi   5g

Cho 2 lít nước đun sôi để nguội, để ngâm vùng rò hàng ngày.

  • Thuốc uống: bài Thác lý tiêu độc
Hoàng kỳ 10g Phục linh 12g
Đương quy 10g Bạch truật 10g
Ngưu tất 10g Đảng sâm 12g
Xích thược 10g Kim ngân hoa 10g

Sắc uống ngày 1 thang

  • Thắt ống rò: dùng que thăm dò đưa viền bao cao su (OK) luồn qua lỗ rò và buộc. Trước khi buộc thắt cần rạch da theo đường rò để chống đau, viền cao su sau 10-12 ngày tự rụng, miệng lỗ rò hở; nếu liền bắc cầu thì dùng gây tê, cắt lọc, sau đó ngâm và uống thuốc trung bình 25 ngày là khỏi (kết quả khỏi 97%, đỡ 3%, không khỏi 0%). Phương pháp này có thể ứng dụng rộng rãi, nhất là tuyến cơ sở.
6.  Kết luận

Điều trị rò hậu môn quan trọng vẫn là tại chỗ, loại bỏ ống rò bằng phẫu thuật hoặc thắt mở ống rò có thể kết hợp với thuốc ngâm, thuốc uống bằng y học cổ truyền có lẽ là phương pháp hữu hiệu nhất.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*