Phòng phong là một vị thuốc thuộc nhóm Tân ôn giải biểu. Nghĩa của tên thuốc: Phòng nghĩa là phòng bị, phong nghĩa là gió. Phòng phong là vị thuốc chuyên trị các bệnh ngoại cảm do gió.
Thực tế, Phòng phong gồm nhiều vị thuốc khác nhau được thu hái và sử dụng. Nước ta chưa thấy mọc loại cây này, hiện nay vẫn đang nhập khẩu từ Trung Quốc. Tại Trung Quốc Xuyên phòng phong và Vân phòng phong chủ yếu được trồng tại Tứ xuyên, Quý Châu, Vân Nam. Phòng phong chủ yếu được trồng tại Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Nội Mông.
1. Bộ phận dùng, thu hái và chế biến
Bộ phận dùng: rễ của cây Phòng phong.
Thu hái vào mùa xuân, thu. Đào lấy rễ, cắt bỏ phần trên, rửa sạch rồi phơi và sấy. Bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát.
2. Công dụng trong y học cổ truyền
Tính vị: cay , ngọt , hơi ấm . Qui kinh bàng quang – can – tỳ.
Tác dụng: Phát biểu tán phong, thắng thấp chỉ thống, giảm co quắp, cầm đi lỏng.
Chỉ định:
Chứng phong hàn, đau đầu, đau nhức mình mẩy, sợ gió lạnh, thường phối hợp dùng cùng với kinh giới, khương hoạt,độc hoạt như bài phòng phong bại độc tán.
Điều trị ngoại cảm phong thấp, đau đầu, đau nhức chi trên, chi dưới, thường dùng cùng với khương hoạt, cảo bản như bài khương hoạt thắng thấp thang. Điều trị phong nhiệt biểu chứng phát sốt, sợ gió, sưng đau họng, thường dùng cùng với bạc hà, liên kiều, thuyền thoái. Điều trị chứng nổi ban ngứa, thường phối hợp với khổ sâm , kinh giới, đương qui như bài tiêu phong tán.
Chứng phong thấp tý: các khớp đau nhức, co rút cân mạch, thường dùng phối hợp với khương hoạt, quế chi, khương hoàng trong bài quyên tý thang.
Chứng phá thương phong (uốn ván): thường phối hợp với thiên ma, thiên nam tinh, bạch phụ tử trong bài ngọc châu tán.
Chứng can uất vũ tỳ, phúc thống tiết tả: phòng phong sao lên có tác dụng chỉ tả, thường phối hợp với trần bì, bạch thược, bạch truật trong bài thống tả yếu phương. Phòng phong sao cháy có thể dùng để điều trị đại tiện ra huyết.
Liều dùng: 3 -10g.
Chú ý: thận trọng khi dùng trong âm hư hoả vượng, huyết hư sinh ra co rút cân mạch.
3. Một số bài thuốc
Chữa cảm phong thấp gây đau nhức mình mẩy, các khớp: Phòng phong 12g, Độc hoạt 10g, Tang ký sinh 12g, Tần giao 12g, Hương phụ chế 8g, Xuyên khung 8g, Hà thủ ô 12g, Quế chi 8g, đổ ngập nước sắc còn khoảng 200ml.
Chữa đau nửa đầu: Phòng phong, Bạch chỉ lượng bằng nhau, tán mịn, hòa với mật làm thành viên to bằng quả táo nhỏ, mỗi lần ngâm một viên với nước trà rồi uống.
Trị co giật do uốn ván (Ngoại khoa chính tông): Nam tinh, Phòng phong, Bạch chỉ, Thiên ma, Khương hoạt, Bạch phụ tử lượng bằng nhau, tán mịn. Lần dùng 6 – 12g chế với rượu nóng để uống.
Trị ngứa thường dùng với các thuốc trị phong khác như Kinh giới, Bạc hà, Kim ngân hoa…
Điều trị đau bụng tiêu chảy: Trường hợp tiêu chảy kèm sôi bụng, đau bụng. Dùng bài cổ phương “Thống tả yếu phương” (Cảnh nhạc toàn phương). Gồm Bạch truật 12g, Bạch thược 12g, Phòng phong 8g (sao), Trần bì sao 6g. Đem sắc với khoảng 600ml nước, sắc còn 200ml là có thể dùng.
4. So sánh với các vị thuốc trị phong khác trong Y học cổ truyền
Khương hoạt và Phòng phong: Phòng phong tác dụng trung bình, Khương hoạt tác dụng mạnh. Phòng phong trị phong toàn thân trong khi đó Khương hoạt trị phong từng vùng (Đông dược học thiết yếu)
Quế chi và Phòng phong: Quế chi trị sợ gió, lạnh sau lưng, Phòng phong chủ trị về sợ gió lạnh ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể (Đông dược học thiết yếu).
Kinh giới và Phòng phong: đều có vị cay, tính ấm, có tác dụng trị cảm khi phong vào phần huyết, có khả năng cầm máu. Nhưng Kinh giới có tác dụng làm cho ra mồ hôi mạnh, có thể trị phong ở phần đầu, mắt, thông cổ họng, đẩy nhanh ban chẩn, cầm máu mà tiêu ứ trệ. Còn Phòng phong có tác dụng khu phong, thắng thấp, giảm đau, cầm máu, cầm băng huyết.
5. Tác dụng dược lý
Phòng phong chứa các tinh dầu bay hơi có tác dụng giảm sốt, chống viêm, giảm đau, chống co rút. Nước sắc Phòng phong có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn lỵ, liên cầu khuẩn. Ngoài ra thuốc còn có tác dụng chống dị ứng và nâng cao miễn dịch của cơ thể.
6. Nghiên cứu khoa học
Thành phần chủ yếu của Phòng phong là Mannitol và Phenol.
Năm 1942, báo cáo của Trung Xuyên Công Hải đã nêu lên tính hạ sốt của Phòng phong. Họ cho thỏ đã được gây sốt uống chất chiết của vị thuốc này, kết quả thỏ có hạ sốt. (Trung Hoa dân quốc y học nội).
Năm 1956, thực nghiệm trên thỏ đã được gây sốt bằng cách tiêm tĩnh mạch vacxin thương hàn của Tôn Thế Tích cho thấy, Phòng phong (Siler divaricatum) sắc thuốc 20% (trọng lượng trên thể tích) và thuốc ngâm liều 10mg trên 1kg trọng lượng đều có tác dụng hạ sốt sau nửa giờ uống. Nhưng thuốc sắc có tác dụng lâu hơn, tác dụng hạ sốt kéo dài trên 2 giờ rưỡi. Còn thuốc ngâm chỉ kéo dài khoảng 2 giờ thì sốt lại. Ông cho rằng tác dụng hạ sốt của Phòng phong không cao lắm. (Trung Hoa y học tạp chí, 10: 964-968).
Ngâm cùng cồn làm tăng ngưỡng đau của chuột khi dùng bằng đường uống hoặc đường chích.
7. Lưu ý
Các trường hợp huyết hư sinh phong hoặc sốt cao co giật, ra mồ hôi trộm, tự chảy mồ hôi đầm đìa, phụ nữ sau sinh, trẻ nhỏ co giật khi bị tiêu chảy nặng không dùng.
Để lại một phản hồi