Học thuyết tạng phủ trong YHCT

1. Định nghĩa

Thuyết tạng phủ là một trong hệ thống lý luận của y học cổ truyền, chỉ ra hiện tượng và hình thái tạng phủ của con người dựa trên quan niệm chỉnh thể thông qua hệ thống kinh lạc, đem các tổ chức, các bộ phận toàn thân liên kết thành một khối chỉnh thể hữu cơ.

– Tạng: chỉ các cơ quan có chức năng tàng trữ, quản lý các hoạt động chính của cơ thể, có 5 tạng (ngũ tạng): tâm, can, tỳ, phế, thận.

– Phủ: chỉ các cơ quan có khả năng thu nạp chuyển giao và truyền tống cặn bã. Có 6 phủ chính (lục phủ): vị, đởm, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, tam tiêu. Ngoài ra còn có một số phủ khác (phủ kỳ hằng), não, tử cung…

[toc]

2. Ngũ tạng

     2.1. Tâm

Tâm là tạng quan trọng nhất, là quân hỏa, là trung tâm các hoạt động sống của cơ thể. Tâm nằm trong lồng ngực, được biểu hiện một số chức năng:

– Tâm chủ huyết mạch, tâm quản về huyết mạch: chức năng tâm chủ huyết mạch tốt thể hiện mặt hồng nhuận sáng sủa, da dẻ tươi nhuận. Chức năng này kém thì sắc mặt xanh xao, xám héo, môi thâm…

Các thuốc liên quan : thuốc hành huyết, hành khí, bổ huyết, bổ âm…

– Tâm tàng thần: chức năng tàng thần tốt biểu hiện ra sự thông minh hoạt bát, và ngược lại tâm không tàng được thần sẽ xuất hiện các chứng hay quên, tư duy kém, mất ngủ, mệt mỏi…

Các thuốc liên quan : thuốc trấn tâm an thần, gây ngủ, thuốc bổ huyết, bổ âm…

– Tâm chủ hãn: Hãn là mồ hôi, là sản phẩm thanh lọc của chất tân, được thải qua tấu lý (lỗ chân lông). Chức năng tâm chủ hãn có liên quan đến chức năng tàng thần. Khi tâm không tàng được thần thì mồ hôi tự vã ra

Các thuốc liên quan : thuốc cố sáp, cố biểu, thuốc an thần…

– Tâm khai khiếu ra lưỡi: chất lưỡi mềm mại, sắc hồng nhuận, nói năng hoạt bát là biểu hiện của trạng thái tâm tốt. Ngược lại chất lưỡi nhợt nhạt, lưỡi cứng hoặc lệch, nói ngọng hoặc không nói được là biểu hiện của tâm tàng thần kém. Tâm nhiệt chất lưỡi và đầu lưỡi đỏ. Tuỳ theo từng  chứng cụ thể có các loại thuốc riêng.

Một số bệnh có liên quan đến tạng tâm:

– Tâm dương hư: biểu hiện tim đập nhanh (tâm quý) khí đoản (hơi thở ngắn) hoặc khó thở, mặt trắng bệch, lưỡi nhợt nhạt, môi tím tái, hoặc mạch vi, tế, sợ lạnh, hoa mắt, chóng mặt. Nên dùng thuốc an thần, hóa đờm, bổ khí, bổ huyết.

– Tâm huyết bất túc: huyết thiếu, tim đập nhanh, biểu hiện hay quên, mất ngủ, ngủ hay mộng, da xanh xao lưỡi trắng nhợt, thân nhiệt thường hạ, nên dùng thuốc bổ huyết an thần.

– Tâm huyết ứ trệ: đau vùng tim, tim đập nhanh, mặt môi mong tay thâm tím. Nên dùng thuốc hành khí hành huyết…

– Tâm hỏa vượng: mặt đỏ, miệng đắng,  niêm mạc miệng lưỡi phồng dộp, đầu lưỡi đỏ, tiểu tiện nóng đỏ, lòng bàn tay chân nóng…Nên dùng thuốc thanh nhiệt, kiêm lợi thủy, an thần…

     2.2. Can

Về giải phẫu học tạng can của y học cổ truyền được coi như gan, song về chức năng lại được thể hiện như sau:

– Can tàng huyết: can là kho dự trữ và điều tiết huyết cho cơ thể. Khi cơ thể ở trạng thái hoạt động phần lớn huyết được chuyển từ can tới tận tế bào, cung cấp dinh dưỡng cho hoạt động của tế bào. Khi nghỉ ngơi, khi nằm, khi ngủ, đại bộ phận huyết được trở về can.

Chức năng can tàng huyết tốt cơ thể khỏe mạnh hồng hào do huyết sung túc, chức năng can tàng huyết kém cơ thể xanh xao, mệt mỏi, mắt trắng giã…

Các thuốc liên quan: thuốc bổ huyết, bổ âm, hoạt huyết, hành khí…

– Can chủ cân: cân tức là gân, bao cơ, khớp, dây chằng… Can chủ cân kém, xuất hiện gân co duỗi khó khăn, các hệ thống dây chằng sa giãn đi lại khó khăn, teo nhẽo cơ. Trẻ em chậm biết đi hoặc không đi được.

Các loại thuốc liên quan đến chức năng can chủ cân là thuốc bổ can thận, bổ huyết…

– Can chủ sơ tiết: trước hết là nói đến chức năng sơ tiết mật men của gan. Chức năng can chủ sơ tiết tốt sẽ giúp cho việc tiêu hóa của tỳ vị được tốt. Chức năng này kém sẽ dẫn đến chứng đầy bụng, ăn uống không tiêu, các chứng hoàng đản (vàng da), hoặc sườn ngực đầy tức, phụ nữ bế kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt.

Các thuốc liên quan: thuốc sơ can giải uất, hành khí, hành huyết, lợi mật…

– Can chủ nộ: Can chủ về tức giận về tính nóng nảy cáu gắt. Ngược lại hay cáu giận hại can. Chức năng can chủ nộ liên quan mật thiết với chức năng chủ sơ tiết và can tàng hồn.

Các thuốc liên quan: thuốc an thần gây ngủ, bình can tiềm dương, trọng trấn an thần, sơ can giải uất…

– Can khai khiếu ra mắt: Khí của can được biểu hiện ra ở mắt. Khí của can tốt thì thị lực tốt, ngược lại thì mắt mờ, thị lực suy giảm. Chức năng này có liên quan mật thiết đến chức năng can tàng huyết, tàng hồn và can chủ sơ tiết.

Thuốc có liên quan: thuốc bổ huyết nếu can bất túc, thuốc sơ can giải uất, lợi mật, thuốc thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt lương huyết, thuốc bổ âm, bổ thận…

Một số bệnh lý của can:

– Can khí uất kết: thể hiện hai sườn đau tức đau lồng ngực, đau bụng, phụ nữ kinh nguyệt không đều, viêm gan mãn tính, nên dùng thuốc sơ can giải uất, hành khí hành huyết.

– Can đởm thấp nhiệt: da vàng tiểu tiện vàng đỏ, sườn đau căng, phụ nữ khí hư bạch đới. Nên dùng thuốc thanh nhiệt táo thấp, giải độc, lợi thấp…

– Can phong nội động: ngã đột ngột, thậm chí hôn mê bất tỉnh, bán thân bất toại, miệng mắt méo xệch… Các chứng động kinh, bệnh ý (Ysteria) cũng thuộc loại chứng bệnh này. Nên dùng thuốc bình can tắt phong hoặc trọng trấn an thần, sơ can giải uất…

– Can hỏa thượng viêm: đầu đau căng mặt đỏ mắt đỏ, miệng đắng, lưỡi hồng, hay chảy máu cam (nục huyết). Nên dùng thuốc thanh nhiệt kiêm giải biểu, chỉ huyết.

    2.3. Tỳ

Tỳ là cơ quan có chức năng tiêu hóa dinh dưỡng của hệ tiêu hóa. Một số chức năng tỳ:

– Tỳ ích khí sinh huyết:

Tỳ có vai trò tạo nguồn năng lượng cho cơ thể, tạo khí hậu thiên, khí lấy từ nguồn thủy cốc dinh dưỡng để cung cấp cho mọi hoạt động của ngũ tạng, lục phủ… Tỳ khỏe mạnh, nguồn khí được cung cấp dồi dào, khiến cho cơ thể khỏe mạnh, chức năng này kém người mệt mỏi do chân khí kém, đoản hơi, vô lực, da xanh xao vì huyết hư.

Các thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ ích khí, thuốc hành khí, bổ huyết…

–  Tỳ chủ vận hóa:

Tỳ chủ vận hóa bao hàm ý nghĩa tiêu hóa, vận hóa tinh hoa của thủy cốc (thành phần dinh dưỡng thức ăn) và vận hóa nước trong cơ thể.

Nếu chức năng này của tỳ tốt thì việc cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể được tốt, thủy dịch trong cơ thể được điều hòa. Nếu chức năng này kém dinh dưỡng của cơ thể bị thiếu, đồng thời xuất hiện những chứng phù nề, đặc biệt phù ở bụng, phù của sự thiếu albumin, phù của tình trạng cơ thể đói, cũng có khi xuất hiện tiết tả.

Các thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ ích khí, thẩm thấp lợi niệu, tiêu đạo…

– Tỳ chủ nhiếp huyết (thống huyết):

Chức năng này chỉ rõ khả năng thu gọn huyết lưu thông trong lòng mạch. Chức năng này tốt, huyết vận hành thông suốt trong mạch. Ngược lại tỳ hư huyết loạn, huyết tràn ra ngoài lòng mạch (tức bị xuất huyết), do vậy khi có các triệu chứng xuất huyết nói chung trong cơ thể, cần quan tâm đến chức năng này của tỳ.

Các thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ kiêm chỉ huyết, thuốc bổ huyết, bổ âm…

– Tỳ chủ về chân tay, cơ nhục:

Tỳ khỏe cơ nhục nở nang béo tốt, hồng nhuận. Tỳ yếu, cơ thể gầy, chân tay cơ nhục teo nhẽo, trẻ em chậm biết đi, suy dinh dưỡng, còi xương.

Các thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ ích khí, thuốc bổ huyết, bổ âm, bổ dương…

– Khí tỳ chủ thăng (khí tỳ hướng lên trên, lên thượng tiêu):

Ở cơ thể khỏe mạnh, khí tỳ luôn luôn hướng lên trên, có tác dụng giữ cho các phủ tạng trong cơ thể ở vị trí tự nhiên của nó. Nếu khí tỳ bị hư, trung khí bị hạ và hãm xuống hạ tiêu, làm xuất hiện chứng trạng sa giáng. Ví dụ: sa gan, sa tử cung, lá lách, thóat giang… Do vậy y học cổ truyền thường dùng các thuốc kiện tỳ ích khí, đặc biệt khí trung tiêu, gia thêm các vị thuốc mang tính chủ thặng đặc hiệu như thăng ma sài hổ, để nâng các tạng phủ bị sa về vị trí ban đầu. Thường dùng bài bổ trung ích khí để chữa các triệu chứng này.

Các thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ, ích khí, thuốc tiêu đạo, thuốc hành khí…

– Tỳ khai khiếu ra miệng:

Sự thể hiện của tạng tỳ ra ở miệng, tỳ khỏe miệng muốn ăn, ăn biết ngon, biết đói, tiêu hóa tốt. Tỳ yếu thể hiện chán ăn, ăn không ngon miệng, không tiêu hóa, bụng hay đầy chướng.

Các thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ, tiêu đạo, thuốc mang tính chất kích thích tiêu hóa…

Một số bệnh lý của tỳ:

– Khí tỳ hư nhược: biểu hiện kém ăn hấp thu kém, người gầy, da xanh, vàng, đại tiện thường lỏng, bụng chướng đầy hoặc xuất hiện các chứng sa như thóat giang, trĩ…Nên dùng thuốc kiện tỳ ích khí, hành khí tiêu đạo…

– Tỳ dương hư: ăn uống kém, bụng sôi chướng đầy, đại tiện lỏng, chân tay lạng đôi khi co quắp, thân thể nặng nề phù thũng. Nên dùng thuốc kịên tỳ kiêm bổ dương, thuốc hóa thấp…

– Hàn thấp khuẩn tỳ: bụng ngực đầy chướng không muốn ăn, đầu nặng, toàn thân mệt mỏi đau ê ẩm, đại tiện lỏng. Nên dùng thuốc hóa thấp kiêm hành khí.

+ Tỳ thấp nhiệt: biểu hiện da vàng, bụng đầy chướng, không muốn ăn, đại tiện táo kết tiểu tiện vàng đỏ… Nên dùng thuốc thanh nhiệt táo thấp, kiện tỳ, lợi thủy…

     2.4. Phế

Về mặt giải phẫu học, phế chính là hai lá phổi. Về chức năng phế biểu hiện ở một số chức năng sau:

– Phế chủ khí:

Phế có chức năng hô hấp, đóng vai trò tiếp nhận dưỡng khí (khí trời), sau đó diễn ra quá trình khí hóa (quá trình trao đổi thải thán khí và hấp thụ dưỡng khí, tức là quá trình kết hợp oxy với hemoglobin và thải ra CO2) .

– Phế trợ tâm, chủ việc trị tiết:

Trị tiết là quản lý rành mạch sự hoạt động có quy luật của các tạng phủ, đồng thời giúp tâm tàng thần tốt.

– Phế hợp bì mao:

Tức phế có công năng đóng mở tấu lý (lỗ chân lông) ở da, chữ hợp chỉ ra chức năng “đóng” tấu lý. Khi lạnh lỗ chân lông đóng lại, khi nóng thì mở ra. Sự đóng mở đó được phế chi phối.

Nếu khí phế sung túc thì quá trình đóng mở nói trên được tiến hành bình thường. Ngược lại có yếu tố ngoại tà (hàn tà, nhiệt tà) xâm phạm vào cơ thể thông qua tấu lý sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến phế, gây ra các chứng phế hư hoặc phế thực, làm cho cơ thể mắc các chứng ho, đờm, suyễn tức… Bệnh viêm khí quản mãn tính do khí phế kém, lâu ngày, tấu lý thường thô to, lỗ chân lông thường xuyên dãn mở làm cho mồ hôi ra nhiều, da khô.

Các thuốc liên quan: thuốc giải biểu, chỉ ho, hóa đờm, bình suyễn…

– Phế chủ thông điều thủy đạo:

Phế có chức năng điều tiết phần thủy dịch thông suốt trong cơ thể, liên quan đến chức năng tỳ vận hóa nước. Phế được coi là nguồn nước trên giúp cho thận thủy thanh lọc được bình thường. Nếu chức năng này kém dẫn đến việc điều hòa thủy đạo trì trệ gây ứ đọng nước, dẫn đến phù nề.

Các thuốc có liên quan: thuốc kiện tỳ, lợi thủy thẩm thấp, hóa đờm chỉ ho.

– Khí phế chủ túc giáng:

Khí phế luôn có khuynh hướng đi xuống dưới, giúp cho chức năng thông điều thủy đạo. Nếu khí phế đi lên (khí phế thượng nghịch), gây ra các chứng ho, hen, suyễn tức.

Các thuốc liên quan: thuốc hành khí, hạ khí, thuốc chỉ ho, bình suyễn, hóa đờm.

– Khí phế chủ thanh:

Âm thanh, tiếng nói của con người được ảnh hưởng trực tiếp bởi khí của phế. Khí phế tốt tiếng nói khỏe mạnh, khí phế kém tiếng nói trầm khàn, yếu ớt, hoặc nói không ra tiếng. Trường hợp bị câm, ngoài nguyên nhân não cũng nên lưu ý đến nguyên nhân khí phế chủ thanh.

– Phế khai khiếu ra mũi:

Trạng thái của phế được biểu hiện ra qua đường mũi. Phế tốt hơi thở qua mũi nhịp nhàng, phế nhiệt hơi thở qua mũi nóng, mũi đỏ… Phế tắc cánh mũi phập phồng, phế hư hơi thở ngắn (đoảnkhí) cánh mũi xẹp, hay thở dài. Có các loại thuốc thích hợp theo từng chứng cụ thể. Ví dụ phế nhiệt dùng thuốc thanh nhiệt, tân lương giải biểu…

Một số bệnh lý của phế.

– Phong tà nhập phế: cơ thể biểu hiện sợ lạnh, sốt cao, đau đầu, ho, sổ mũi, đau toàn thân. Nên dùng thuốc giải biểu kiêm chỉ ho.

– Phế âm hư: ho, ít đờm, trong đờm có tia máu, lưỡng quyền hồng, sốt về chiều, nóng âm ỉ trong xương. Nên dùng thuốc bổ âm, kiêm chỉ ho hóa đờm chỉ huyết.

– Đờm phế thấp nhiệt: ho, suyễn đờm đặc, vàng, mùi hôi, đau ngực, sốt. Nên dùng thuốc hóa đờm chỉ ho bình suyễn, thuốc thanh nhiệt…     

– Khí phế hư: ho nhiều, đờm nhiều mà loãng, đoản hơi, ra nhiều mồ hôi, tiếng nói yếu, người mệt mỏi. Nên dùng thuốc bổ khí, chỉ ho, hóa đờm, thuốc cố tinh liễm hãm…

     2.5. Thận

Thận là một trong ngũ tạng được y học cổ truyền đánh giá cao, là vị trí tướng hỏa sau tâm hỏa là quân hỏa. Về giải phẫu, thận là hai quả thận như y học hiện đại. Một số chức năng của thận.

– Thận tàng tinh:

Tinh tiên thiên có sẵn trong bào thai, có nguồn gốc từ cha mẹ, trong quá trình sinh dục. Tinh hậu thiên có nguồn gốc từ dinh dưỡng là tinh hoa của thủy cốc. Chức năng này tốt cơ thể khỏe mạnh, hoạt động hoạt bát, dẻo dai, sống lâu. Chức năng này kém cơ thể mệt mỏi, sinh lý giảm hoặc vô sinh…

Các thuốc liên quan: thuốc bổ thận âm, thuốc bổ thận dương, thuốc bổ âm…

– Thận chủ cốt sinh tuỷ:

Thận chủ về xương cốt, liên quan đến việc cấu tạo sức khỏe vững vàng hoặc bệnh tật của xương cốt. Các bệnh về xương như đau nhức xương khớp, đau lưng, đau răng đều liên quan đến thận.

Các thuốc liên quan: thuốc bổ thận âm dương, bổ huyết…

– Thận chủ thủy:

Thận chủ về điều tiết thanh lọc phần  nước trong cơ thể. Phần cặn bã được dồn xuống bàng quang. Chức năng này có liên quan đến chức năng chủ túc giáng, thông điều thủy đạo của phế và chức năng “vận hóa nước” của tỳ, “chủ huyết mạch” của tâm. Nếu chức năng này kém sẽ gây ra ứ đọng nước trong cơ thể làm cho người bị phù nề, phế bị chèn ép, gây khó thở. Vì vậy muốn chức năng này tốt, khí phế phải thông.

Các thuốc liên quan: thuốc thẩm thấp lợi niệu, hóa đờm, chỉ ho, bình suyễn.

– Thận chủ nạp khí:

Thận đóng vai trò hô hấp ở giai đoạn đưa không khí vào (nạp khí). Thận chủ nạp khí kém gây khó thở, đoản hơi, suyễn tức. Như vậy chức năng này có liên quan mật thiết đến chức năng chủ khí của phế. Do vậy những người mắc chứng bệnh viêm khí quản mãn, viêm phổi… muốn điều trị tốt phải cố thận.

Các thuốc liên quan: thuốc bổ thận dương, bổ khí hóa đờm, bình suyễn.

– Thận chủ mệnh môn:

Mệnh môn chỉ tướng hỏa, long hỏa hàm ý chỉ nthận dương, tạo ra sức nóng cho cơ thể duy trì thân nhiệt hằng định 37oC. Nếu chức năng này kém chân tay lạnh, sợ gió, sợ nước, thân nhiệt thường thấp hơn 37o C. Thận dương cung cấp sức nóng cho tỳ dương (thận dương ôn hóa tỳ dương). Nếu chức năng này kém, không ôn hóa tỳ dương sẽ dẫn đến đầy bụng, sôi bụng, tiết tả và thường mắc bệnh ngũ canh tả đi tả vào canh thứ 5 (tương đương với bệnh viêm đại tràng mãn), kèm theo đó là tiêu hóa không tốt, kém ăn…

Thuốc có liên quan: thuốc bổ thận dương, thuốc hóa thấp, ôn trung, thuốc kiện tỳ, tiêu đạo…

– Thận khai khiếu ra tai và nhị âm (tiền âm, hậu âm):

Sự thể hiện của thận ra tai và nhị âm. Thận khí kém tai ù, kém quá tai điếc. Người già hay ù tai, điếc tai là do thận kém. Do vậy thính lực kém là phải chữa thận. Mặt khác thận kém còn biểu hiện tiểu tiện bí dắt hoặc không cầm hoặc đái dầm hoặc di tinh…hoặc đại tiện lỏng hoặc táo kết…. Thuốc liên quan đến chức năng này: thuốc phương hướng khai khiếu, thuốc bổ thận, thuốc cố tinh sáp niệu…

Một số bệnh lý của thận:

– Thận dương hư nhược: lưng đau gối đau mỏi, chân lạnh, táo tiết, liệt dương, vô sinh. Nên dùng thuốc bổ dương kiêm bổ khí.

– Thận âm bất túc: tai ù, đau đầu, mắt mờ ra mồ hôi trộm, tiểu tiện đục. Nên dùng thuốc bổ âm kiêm cố tinh, lợi niệu,

– Thận khí hư: đau lưng, chân tay vô lực, tiểu nhiều, tiểu dầm, di tinh, đoản hơi, suyễn tức. Nên dùng thuốc bổ dương, bổ khí, thuốc cố tinh sáp niệu.

3. Lục phủ

Phủ là những cơ quan có chức năng thu nạp chuyển giao và tống thải.

Lục phủ (6 phủ chính): đởm, vị, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, tam tiêu. Ngoài ra, những phủ có công năng khác được gọi là phủ kỳ hằng như não, xương, tuỷ, mạch, tử cung…

     3.1. Đởm (Mật)

Đởm là phủ trung tinh “trung tinh chi phủ” trong chứa chất dịch tinh thanh khiết được gọi là mật, liên quan mật thiết với can về chức năng sơ tiết “khí dư của can tiết vào đởm tụ lại mà thành tinh”. Đởm giữ chức năng “trung chính”, tức giữ sự thăng bằng, chuẩn xác sự hoạt động của các tạng phủ khác. Đởm liên quan mật thiết đến can để thực hiện chức năng sơ tiết “can hợp đởm, đởm giả trung tinh chi phủ”. Khi chức năng này kém sẽ là nguyên nhân làm cho tinh thần bị tổn thương. Nếu đởm khí suy nhược dần dần dẫn đến bệnh tật cho cơ thể. Ví dụ can đởm uất trệ, thấp nhiệt bị ngưng đọng, làm cho sơ tiết mật bị lhông bình thường xuất hiện các bệnh hoàng đản (vàng da), nếu đởm hỏa, chức năng can dương thịnh làm cho bệnh nhân hay cáu giận, đau đầu, cao huyết áp…

Thuốc có liên quan: thuốc thanh nhiệt táo thấp, hành khí giải uất, sơ can lý khí, thuốc lợi thấp…

     3.2. Vị

Chức năng thu nạp và làm nhừ thủy cốc, sơ bộ tiêu hóa thức ăn. Công năng này được gọi dưới tên chung là vị khí. Vị khí phải tuyên hòa tuyên giáng (gọi là vị khí hòa giáng), tức là nói tới trạng thái bình thường của vị, trên cơ sở đó vị có thể tiêu hóa thủy cốc và chuyển đẩy xuống tiểu tràng. Nếu không sẽ gây ra hiện tượng lưu trệ thức ăn, vị khí thượng nghịch gây nôn lợm. Do đó “vị khí tráng, ngũ tạng đều tráng”. Các chức năng của vị kém xuất hiện các chứng đau bụng, sôi bụng, đầy chướng, nuốt chua, nôn lợm (vị thực tích) hoặc sôi bụng nôn ra đờm dãi (vị hàn), hoặc đau bụng, miệng khô khát, nuốt chua, hôi miệng, niêm mạc miệng, lợi sưng thũng, sụt lợi (vị nhiệt).

 Thuốc có liên quan: thuốc kiện vị , tiêu đạo, hành khí, thanh nhiệt…

     3.3. Tiểu tràng

Tiểu tràng có chức năng tiếp nhận thức ăn đã được sơ bộ tiêu hóa từ vị chuyển xuống, đồng thời tiến hành quá trình phân hóa vật chất để thu lấy chất thanh (chất dinh dưỡng, chất bổ, nước, muối khóang, vitamin…) cho cơ thể và thải trừ cặn bã xuống đại tràng, tức là quá trình thăng thanh giáng trọc. Phần thủy dịch của cặn bã được qua thận, xuống bàng quang thành nước tiểu. Như vậy tiểu tràng có quan hệ nhất định với việc hình thành đại tiểu tiện. Tiểu tràng cũng quan hệ mật thiết với tâm. Vì chính các chất dinh dưỡng mà tiểu tràng hấp thu được chuyển vào huyết mà tâm chủ huyết mạch.

Các thuốc liên quan: thuốc thanh nhiệt táo thấp, kiện tỳ, tiêu đạo…

     3.4. Đại tràng

Đại tràng có chức năng tiếp nhận chất cặn bã từ tiểu tràng chuyển xuống, đồng thời làm nhiệm vụ tống thải chất cặn bã ra ngoài. Những chất cặn bã tiểu tràng chuyển xuống đã được đại tràng hấp thu một phần nước trong đó. Nếu chức năng hấp thu phần nước này kém do đại tràng hư hàn, xuất hiện sôi bụng, đau bụng, phân nát lỏng, ngược lại đại tràng thực nhiệt, việc hấp thu phần nước quá mức dẫn đến chứng táo kết.

Các thuốc liên quan: thuốc thanh nhiệt táo thấp, thuốc kiện tỳ, tiêu đạo, tả hạ, cố sáp…

     3.5. Bàng quang

Bàng quang có chức năng chứa đựng và thải trừ nước tiểu. Phần thủy dịch sau khi qua thận được phân thanh tiết trọc. Phần thanh trở lại cơ thể, phần trọc (phần đục, bã) đi vào bàng quang thành nước tiểu. Công năng này còn gọi là công năng khí hóa, có liên quan mật thiết đến thận dương.

Một số bệnh của bàng quang, bàng quang thấp nhiệt, tiểu tiện vàng đỏ, buốt dắt, các bệnh sỏi bàng quang.

Các thuốc liên quan: thuốc lợi thủy thẩm thấp, thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt giải độc.

     3.6. Tam tiêu

Tam tiêu chỉ thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Có một số quan niệm về tam tiêu như sau:

– Tam tiêu khái quát tạng phủ, chia 3 vùng trong cơ thể:

Thượng tiêu chứa tâm phế.

Trung tiêu chứa tỳ vị.

Hạ tiêu chứa thận, bàng quang.

Công năng: thượng tiêu chủ phân bố tông khí (dinh khí, vệ khí), trung tiêu chủ hấp thu tiêu hóa vật chất, hạ tiêu chủ bài tiết.

– Tam tiêu là biệt sứ của nguyên khí là nguồn thủy cốc, là nơi đầu nguồn và cuối nguồn của dương khí. Thượng tiêu chủ thu nạp thủy cốc, phân bố khí thủy cốc đến toàn thân, ôn dưỡng bì phu, cơ nhục, xương khớp. Trung tiêu làm nhừ thủy cốc, chưng tân dịch. Hạ tiêu chủ phân biệt thanh trọc.

– Từ miệng  trên dạ dày đến cuống họng là thượng tiêu, từ miệng trên dạ dày đến miệng dưới dạ dày là trung tiêu, từ miệng dưới dạ dày đến hậu môn là hạ tiêu (quan niệm của Hải Thượng Lãn Ông).

4. Phủ kỳ hằng

Phủ kỳ hằng là những phủ mang tính chất khác thường, bao gồm não, tuỷ, xương, mạch đởm, tử cung. Phủ kỳ hằng không giống với các phủ mang tính chất chuyển hóa nói chung như lục phủ, mà chúng có một công năng đặc hiệu là tàng tinh, tàng âm tinh, tàng mà không tả. Trong đó đởm cũng thuộc loại này.

     4.1. Não

Não nằm trong hộp sọ thông với tuỷ, “Não vi tuỷ chi hải”, tuỷ chỉ là một phần nhỏ của não. Não có liên quan mật thiết đến xương thủy toàn thân. Nếu não tuỷ tốt, sinh lực dồi dào, khả năng làm việc tốt. Não tuỷ không tốt làm cho đau đầu, ù tai , hoa mắt, mệt mỏi, vô lực. Não là cơ quan hết sức trọng yếu.

     4.2. Tủy

Tuỷ sinh ra do thận, tàng ở trong xương, là chất dinh dưỡng xương. Não và tuỷ đều chứa trong khoang xương song có liên quan toàn thân. Những chất dinh dưỡng cũng được dẫn vào nuôi dưỡng não tuỷ. Nếu do nguyên nhân nào đó làm tổn thương tân dịch cũng làm giảm tân dịch của não tuỷ, dẫn đến co duỗi xương cốt khó khăn, tai ù, tuỷ thiếu.

     4.3. Xương

Xương là bộ khung của cơ thể. Xương rắn chắc giữ cho hình thể con người khỏe đẹp. Xương được nuôi bởi tuỷ. Tính bền chắc của xương là do tuỷ quyết định. Nếu tuỷ hư hao xương thiếu dinh dưỡng dẫn đến còi xương, dòn xương…

Như vậy não, tuỷ, xương có liên quan mật thiết vì thận sinh tuỷ, tuỷ dưỡng cốt, cốt tàng tuỷ, tuỷ thông với não, tất cả đều thuộc phạm vi thận chủ.

     4.4. Mạch

Mạch là đường vận hành khí huyết liên quan mật thiết với tâm phế. Tâm chủ huyết, phế chủ khí. Mạch vận tải khí huyết. Mạch được phân bố toàn thân, có hai công năng chủ yếu là làm cho khí huyết tuần hoàn theo một chiều hướng nhất định và vận chuyển tinh hoa của thủy cốc dinh dưỡng toàn thân, vận hành của huyết mạch dựa vào khí cho nên “Mạch là phủ của huyết, lấy khí làm gốc” “Khí hành tắc huyết hành, khí trệ tắc huyết ứ”. Bệnh huyết đa phần do khí, bệnh khí cũng do huyết. Bởi vậy sự vận hành của mạch không những phản ánh sự ít nhiều của huyết mà còn phản ảnh mối quan hệ bình thường giữa khí và huyết, đồng thời sự vận động của mạch cũng quan hệ đến sự hoạt động của phủ tạng. Vì vậy y học cổ truyền  dùng phương pháp “bắt mạch” để chuẩn đoán bệnh tình trong cơ thể, coi đó là phương pháp quan trọng.

     4.5. Tử cung

Tử cung còn gọi là nữ tử bào, bào cung, có công năng chủ về kinh nguyệt và dưỡng dục thai nhi. Tử cung có quan hệ với thận. Nhâm mạch, xung mạch đều khởi đầu từ bào cung. Do vậy, tử cung cùng thận và mạch xung, nhâm đều có quan hệ tương hỗ. Thận khí vượng, bào cung phát dục tốt, kinh nguyệt tốt đầy đủ giúp cho khả năng thụ thai tốt, ngược lại thận khí và mạch xung nhâm kém dẫn đến bế kinh, khả năng sinh con kém hoặc vô sinh.

5. Mối quan hệ tạng phủ

Giữa tạng và phủ trong cơ thể có quan hệ mật thiết với nhau. Sự liên quan đó thể hiện ra ở mối quan hệ tạng với tạng, tạng với phủ và phủ với phủ. Điều đó phản ánh mối tương quan biểu lý, hữu cơ vì cơ thể là một khối thống nhất.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*