LAO PHỔI THÂM NHIỄM
– Biện chứng đông y: Tỳ phế lưỡng hư, huyết ứ đàm kết.
– Cách trị: Ích phế kiện tỳ, hành ứ hóa đàm tán kết.
– Đơn thuốc:
1. Gia vị ích phế thang.
Sa sâm 9g | Tử uyển 12g |
Cát cánh 9g | Chích cam thảo 6g |
Hạnh nhân 9g | Bách bộ 9g |
Hạ khô thảo 12g | Trần bì 9g |
Bán hạ 9g | Bạch cập 15g |
Sơn dược 24g | Bạch truật 9g |
Kê nội kim 12g | Bạch đậu khấu 9g |
Đương quy 9g | Sa toan táo nhân 18g |
Chích tang bì 9g |
Sắc uống 2 lần, trộn đều chia 2 lần uống, mỗi ngày 1 thang.
2. Phế kết hạch lưu tẩm cao:
Hạ khô thảo 240g | ích mẫu thảo 90g |
Đương quy 45g | Cát cánh 90g |
Sa sâm 90g | Trần bì 45g |
Đan sâm 60g | Bách hợp 45g |
Bán hạ 45g |
Sắc 3 lần lọc lấy nước, cho thêm Bạch chỉ 150g, Phê sương 60g, Đường đỏ 120g. Đun nhỏ lửa thành cao lỏng. Mỗi lần uống 20ml, ngày 3 lần.
– Hiệu quả lâm sàng: Trương XX, nữ, 25 tuổi. Sơ chẩn ngày 25-2-1959. Cách đây 1 nǎm ho ra đờm, ǎn không ngon miệng, mệt mỏi mất sức, dần dần gày rộc đi, có lúc hơi đau ngực, ngủ kém, kinh nguyệt chậm hơn 10 ngày, ba tháng nay lại mất kinh. Đã đến bệnh viện chụp X quang, chẩn đoán là lao phổi thâm nhiễm. Hiện tại bệnh nhân hoàn toàn nghỉ ở nhà, hơn 1 tháng liền uống Rimifon, tự cảm thấy bệnh không có biến chuyển rõ rệt, tới xin điều trị. Khám thấy người bệnh thân thể gày gò, chất lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch trầm tế. Cho dùng bài “Gia vị ích phế thang” và “Phế kết hạch lưu tẩm cao”. Đồng thời yêu cầu bệnh nhân tiếp tục uống Rimifon phối hợp, mỗi ngày 400 mg để đẩy nhanh quá trình điều trị bệnh. Uống được hơn 30 thang và 2 liều cao lỏng thì người bệnh ǎn uống nhiều hơn, cảm thấy có sức, thể trọng tǎng lên, các chứng ho, khạc đờm mất hẳn, kinh nguyệt trở lại gần như bình thường. Ngày 9 tháng 5 tới thǎm lại thì bệnh nhân đã trở lại công tác được hơn nửa tháng, nhưng vẫn khuyên nên tiếp tục uống bài thuốc trên. Lần sau tới thǎm bệnh được biết sau khi tiếp tục uống thuốc, vào tháng 7 có đi chiếu X quang thấy các ổ lao đã khỏi hẳn, kinh nguyệt đã trở lại hoàn toàn bình thường.
21. LAO PHỔI THÂM NHIỄM (Kèm viêm phúc mạc do lao)
– Biện chứng đông y: Âm hư hỏa vượng, tổn thương phế âm, túc thực hóa nhiệt, xâm nhập phúc mạc, nhiệt uất thành độc.
– Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, tiêu ung tán kết.
– Đơn thuốc: Thác lý nội tiêu thang.
– Công thức:
Kim ngân hoa 45g | Đương quy 12g |
Huyền sâm 15g | Xa tiền tử 12g |
Bồ công anh 30g | Cam thảo 6g |
Nhục thung dung 15g |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần sáng tối.
– Hiệu quả lâm sàng: Lưu XX, nam, học sinh. Tới khám ngày 14-4-1960. Bị ốm đã hơn 1 nǎm, đau ngực, ho, thở ngắn, trong họng có tiếng đờm khò khè, sốt buổi chiều, bụng to dần, cự án, ǎn uống kém, đại tiện táo bón, nước giải vàng, sắc mặt nhợt nhạt, gò má đỏ, da khô, người gầy gò, chất lưỡi đỏ, rêu trắng, hơi vàng mà khô, tinh thần mệt mỏi, nhǎn nhó, hơi thở ngắn, tiếng nói trầm yếu, mạch tế, sác mà vô lực. Tây y chiếu X quang, chẩn đoán là lao phổi thâm nhiễm kèm viêm phúc mạc do lao. Bệnh này thuộc về âm hư, hỏa vượng, phế lao, kèm theo túc thực hóa nhiệt xâm nhập phúc mạc phúc bì. Phép trị là phải thanh nhiệt giải độc, tiêu ung tán kết. Cho uống “Thác lý nội tiêu thang”. Uống được 5 thang, bụng đã nhỏ bớt được một nửa, các chứng thấy nhẹ nhõm hẳn. Vì thế bỏ bớt Nhục thung dung trong bài này và thêm Liên kiều 15g, tiếp tục cho uống. Lại uống tiếp 5 thang, bụng đã hết hẳn báng, nhưng có lúc chướng bụng, ǎn ít, tiêu hóa không tốt. Sợ rằng dùng thuốc dưỡng âm thanh nhiệt quá độ, gây thương tổn đến dương của tì vị có hại về sau, hơn nữa vì người bệnh vốn ǎn không tiêu nên đổi sang dùng bài thuốc “Gia giảm hư sinh thang” dưới dạng hoàn, bài thuốc như sau: Sơn dược 15g, Nội kim 12g, Tang diệp 12g, Ngưu bàng tử 9g, Huyền sâm 15g, Thần khúc 15g, Mạch nha 15g, Bạch truật 12g, Phục linh 12g, Sa nhân 6g, Cam thảo 6g. Tất cả tán bột mịn, luyện mật thành hoàn, mỗi viên nặng 6g, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên. Uống được 2 tuần lễ thì bụng hết chướng, ǎn uống tǎng gấp đôi, sức khỏe cũng phục hồi được phần lớn. Lại tiếp tục cho uống “Thoát lý nội tiêu thang”. Một tháng sau chiếu X quang thấy các dấu vết lao phổi đã lành hẳn.
– Bàn luận: Đây là 1 trường hợp lao phổi thâm nhiễm kèm viêm phúc mạc do lao, các biểu hiện của nó được đông y coi là âm hư hỏa vượng, lửa đốt phế âm dẫn tới phế lao, kèm theo ǎn không tiêu thành nhiệt xâm nhập phúc mạc, nhiệt uất thành độc gây nên phúc mạc bị ung. Đau ngực ho là do chứng hỏa đốt phế âm, sắc mặt nhợt nhạt, hai gò má đỏ, chất lưỡi đỏ, da khô và mạch tế, sác, vô lực tất cả đều là do âm hư hỏa vượng. Bụng báng cự án là do nhiệt độc tụ lại làm tắc đường mạch, dinh vệ tuần hành không thông. “Nội kinh” có nói: “Vinh khí không thuận thì ngược vào trong thịt, sinh ra ung thũng”: là có nghĩa như vậy. Chọn dùng bài thuốc thanh nhiệt giải độc sinh huyết, trong đó Kim ngân hoa thanh nhiệt giải độc, Đương quy hoạt huyết sinh tân, Huyền sâm dưỡng âm chế hỏa, Sa tiền tử lợi tiểu, làm giải độc qua đại tiểu tiện, Bồ công anh tiêu ung tán kết, vì đại tiện táo bón, dùng Nhục thung dung để tǎng dịch nhuận tràng. Hết nhiệt giải độc, âm đủ thì bệnh sẽ khỏi. Tuy nhiên, trải qua thực tế lâm sàng thấy rõ thêm rằng cần phải dùng nhiều Kim ngân hoa, bài thuốc mới có hiệu quả tốt, nói chung có thể dùng đến 60-90g. Bài thuốc này dùng trị lao phổi đã nhiều nǎm nay, phần nhiều đều thu được hiệu quả rất tốt.
Để lại một phản hồi