ĐẠI KẾ CÙNG TIỂU KẾ
Công hiệu khác nhau.
Đại kế và tiểu kế đều có công dụng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, phá huyết, khứ ứ, tiêu thũng. Hai vị thường dùng phối hợp.
Nhưng đại kế lực mạnh, lại sở trường phá huyết, giải độc, tiêu thũng. Tiểu kế lực yếu, mà hay chỉ huyết, lợi thủy, thoái lui thũng.
Chủ trị khác nhau.
1 – Đại kế chủ trị xuất huyết nhiệt chứng.
Tiếu kế sở trường trị niệu huyết, lâm huyết.
Đại kế thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết. Dùng cho các chứng xuất huyết thuộc nhiệt. Như “Bát cứ tập” Bài Đại kế ẩm (đại kế căn một nắm, giã vắt lấy nước cốt hòa với rượu) trị đổ máu cam.
“Bản thảo hối ngôn”. Trị thổ huyết, nục huyết, băng trung lạc huyết. Dùng đại kế một nắm giã vắt lấy nước cốt, uống nửa thăng. Tiểu kế sở trường chỉ huyết, trị thổ huyết, nục huyết, khái huyết, băng lậu, các chứng thuộc nhiệt, thường cùng phối hợp với đại kế. Mà với các bệnh niệu huyết, huyết lâm tiểu kế lại càng hay.
Như “Tế sinh phương” Tiểu huyết ẩm tử (sinh địa hoàng, tiểu kế căn, hoạt thạch, thông thảo, sao bồ hoàng, đạm trúc diệp, ngẫu tiết, đương quy, chi tử nhân, trích cam thảo) trị các chứng hạ tiêu nhiệt kết, huyết lâm, niệu huyết.
2 – Đại kế trị thống sang, thũng độc.
Tiểu kế càng hay chữa bệnh vàng da, tiêu thủy.
Đại kế phá huyết giải độc, tiêu thũng, chỉ thống, dùng chữa nhiệt ứ, gây các chứng sang thông, thũng độc.
Như “Phúc kiến dân gian thảo dược” – Trị đinh tiết, sang dương, chước nhiệt, sinh thũng, dùng ít dại kế căn hòa với đông mạt giã đều dán vào chỗ đau, ngày thay hai lần.
“Bản thảo hối ngôn” trị tràng thống, âm thư bên trong. Dùng đại kích, địa du, ngưu tất, kim ngân hoa đều giã nát vắt lấy nước cốt, hòa với rượu nóng.
Tiểu kế chữa ung sang độc không bằng đại kế. Nhưng thoái hoàng, lợi thủy thì đại kế lại hay hơn. Cho nên chữa hoàng đản và thủy thũng thường dùng tiểu kế căn một lạng, hoặc ít rễ 2 lạng, sắc nước, lọc qua rồi cho đường vào uống ngay. Cũng có thể phối hợp với tử thảo, nhân trần, sinh mạch nha.
“Tâm trung y” 1982 số thứ 9 có báo: dùng tiểu kế âm tử, trị cấp tính thận viêm đầu, mặt phù thũng, đầu váng, tiểu tiện không lợi, nước đái vàng và ít, miệng ở góc có mọc mụn, chữa rất hay.
3 – Đại kế chủ trị ung thư phổi.
Tiểu kế trị phiền nhiệt, âm dạng.
Đại kế phá ứ giải độc, tiêu thũng. Dùng chữa độc nhiệt ủng ứ sinh các chứng phế ung, ung thư phế.
Như “Mãn đông bản thảo” trị phế ung, dùng đại kích 4 lạng, sắc thang, buổi sớm, buổi chiều, sau bữa cơm thì uống.
“Thế y đắc hiệu phương” Đại kế tán (đại kế căn, tê giác, thăng ma, trích tang bạch bì, sao bồ hoàng, hạnh nhân, sao cát căn, mỗi thứ một lạng, cam thảo nửa lạng, đều giã nhỏ). Mỗi lần dùng 4 đồng cân, thêm 5 nhát gừng tươi sắc nước làm thang uống thuốc, không kể thời gian nào uống cũng được, trị ung phế.
Tiếu kế lương huyết, lợi thấp, thanh tâm, trừ phiền, dùng chữa bệnh tâm nhiệt, gây bệnh phiền khát, miệng lưỡi sinh sang, nước tiểu đỏ, âm dạng.
Như “Quảng tễ phương” trị phụ nhân âm dạng. Tiểu kế sắc thang, ngày rửa 3 lần, cũng có thể dùng cùng sinh địa, trúc diệp, mộc thông, sa tiền tử.
Đặc thù chữa khác nhau.
“Trung dược đại từ điển”. Lâm sàng báo: Dùng đại kế căn rửa sạch. Mỗi ngày 120 khắc cho nước vào 400 hào thăng, đun nhỏ lửa còn 200g, chia 2 lần dùng, trị chứng phổi cứ hạch rất hay. Dùng rễ khô cho nước đun sôi ước nửa giờ, đun chín 3 lần mỗi lần nước sôi ước nửa giờ, lọc lấy nước cốt, cô đặc thành 100g tương đương với thuốc sống 15 khắc sớm, chiều đều dùng, mỗi lần 100g. Trị cao huyết áp có hiệu quả.
Lâm sàng báo: Dùng tiểu kế chữa phụ nữ tử cung sa mà thu lại không gọn, hết sau lại băng huyết. Dùng tiếu kế tâm thanh cao (1:10) mỗi lần từ 1 – 3g, mỗi ngày 3 lần. Nếu nhu thời kỳ ra huyết nhiều, dùng mỗi lần từ 4 đến 8 g, mỗi ngày 3 – 4 lần đã chữa có hiệu quả. Trị bệnh ma phong. Tinh ty nục. Dùng cả cây rửa sạch, giã nát, dùng vải màn lọc lấy nước cốt cho vào nồi đun cho đến lúc nước lăng thủy phân, để nguội lại cho vào bình pha lê đề phòng thuốc hỏng. Khi dùng lấy bông tẩm nước thuốc cho vào trong mũi, mỗi ngày đổi 3 – 4 lần. Mỗi lần chữa từ 8 đến 14 ngày thì khỏi.
Để lại một phản hồi