I. Khái niệm
Chứng khí thoát là tên gọi chung, chỉ chính khí của cơ thể suy yếu, nguyên khí sút kém, khí theo huyết thoát, âm dương muốn chia lìa, xuất hiện nhiều chứng trạng nguy cấp. Chứng này do ngoại cảm hoặc nội thương, ốm lâu không khỏi, chính khí không thắng nổi tà khí, hoặc là bị ngoại thương, băng huyết, sau khi đẻ bị mất nhiều máu gây nên khí thoát – thường là bệnh tình biến hóa đột ngột xuất hiện chứng hậu nguy ngập, cho nên cần phải tích cực cấp cứu.
Biểu hiện chủ yếu của chứng khí thoát là mồ hôi bỗng dưng vã ra đầm đìa, tinh thần ủy mị, mắt nhắm miệng há, sắc mặt tái xanh, đoản hơi không đủ để thở, đại tiểu tiện không tự chủ, chất lưỡi nhạt bệu, mạch tế vi hoặc khâu đại.
Chứng khí thoát gặp rải rác trong các bệnh biến “hàn mê”, “chiến hãn”, “trúng phong”, ” băng lậu”, sản hậu huyết vậng”.
Nên phân biệt chứng khí thoát với các “chứng vong âm”, “chứng vong dương”, và ” chứng khí quyết”.
II. Phân tích
Vì nguyên nhân bệnh, cơ chế gây bệnh của các loại tật bệnh phát triển đến chứng này khác nhau nên biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau.
Ví dụ chứng khí thoát, có thể trước khi xẩy ra hàn mê, phần lớn do ngoại cảm nhiệt bệnh chưa khỏi, tả nhiệt luẩn quẩn hun đốt tân dịch gây nên, lúc này nếu lầm dùng các thuốc hãn thuốc hạ, có thể thấy ra mồ hôi mà tả hạ, tinh thần mệt mỏi, mắt nhắm đoản hơi, chân tay co giật, mạch khí hư yếu, lưỡi tía ít rêu, từng lúc muốn thoát, cho uống bài đại định phong châu. Cũng có thể do cơ thể vốn thận hư, nghuyên khí bất túc, ốm lâu không khỏi gây nên, lúc này nếu lầm dùng thuốc hãn thuốc hạ, có thể ra mồ hôi đầm đìa, tinh thàn vật vã, sắc mặt trắng bệch, mạch vi tế, chất lưỡi nhạt bệu, điều trị nên ích khí cố thoát, chỉ liễm cứu nghịch, cho uống thuố độc sâm thang hoặc sâm phụ long mẫu thang.
Lại như vì chiến hãn thái quá đến nỗi xuất hiện chứng khí thoát phần nhiều do ôn tà trước sau vẫn lưu luyến ở khí phận chưa phạm vào doanh phận, lúc này chính khí còn thịnh mà ta khí chưa rút ra, muốn thàng qua chiến hãn để đẩy bệnh tà ra ngoài thì khỏi. Chiến hãn là chính khí và ta khí tranh dành nhau, toàn thân run rẩy mà ra mồ hôi, khiến cho bệnh tà theo mồ hôi mà thấu đạt ra ngoài, sau cơn chiến hãn, đương lúc ra mồ hôi, chân tay lạnh, tinh thần tỉnh táo, nằm co, mạch hư hoãn hòa, nếu điều trị và chăm sóc hợp lý, đợi chính khí hồi phục sẽ có hướng khỏi. Nếu ra mồ hôi chân tay lạnh, phiền táo không yên, mạch cấp tật, đó là dấu hiệu chính khí hư thoát sau khi chiến han, cần tích cức cứu chữa, điều trị nên ích khí nuôi tân dịch để cứu thóa, cho uốn ngay đoc sâm thang hoặc dinh mạch tan.
Chứng này còn gặp ở thoát chứng của bệnh trúng phong, sách y kinh xô hồi tâph viết “trúng phong không phải là phong tà từ ngoài tới, nó vốn là khí bệnh “con người ở lứa tuổi tư tuần sắp tới lúc suy, hoặc là do lo mừng cáu giận làm tổn thương khí, đa số bị bệnh này. Đó là vì nghỉ ngơi sai qui cách,nguyên khí thiếu thốn, can thận bất túc, hư phong nội động gây nên, có triệu chứng bỗng dưng ngã lăn, sắc mặt tái xanh, mắt nhắm miệng há, tay xòe chân lạnh, đại tiểu tiện tự vãi ra, miệng mắt méo xệch, bán thân bất toại, lưỡi mềm không nói được, mạch tế vi, điều trị nên ích khí cứu thoát, cho uống độc sâm than hoặc sâm phụ thang.
Chứng khí thoát lâm sàng thường gặp ở những người dương khí vốn hư, ốm lâu không khỏi, cao tuổi thể trạnh yếu. Như các bệnh “băng trung”, “xuất huyết nhiều sau khi đẻ”, thường bị khí theo huyết thoát mà xuất hiện chứng này.
Chứng “huyết băng” đến nỗi khí thoát, phần nhiều tổn thương do ăn uốn mệt nhọc, hoặc tư lự quá độ đến nỗi tỳ vị khí hư, nguyên khí tổn thât lớn, khí không nhiếp huyết, xung nhâm không bền, có triệu chứng kinh nguyệt quá nhiêu, sắc mặt trắng bệch, tinh thần bạc nhược, biếng ăn thiếu khí, mỏi lưng chân tay yếu, lưỡi nhạt bệu, mạch tế vi.
Nếu sau khi đẻ huyết mất quá nhiều đến nỗi khí thoát, phần nhiều do đẻ dầy, hoặc bào cung tổn thương, xung nhâm rỗng không, nguyên khí suy hao, mất quá nhiều huyết, khí theo huyết thoát, có chứng trạng sau khi đẻ huyết ra không dứt, ác lộ dẳng dai, mồ hôi lạnh đầm đìa, tinh thần khốn đốn yếu sức, mắt trũng mặt nhợt, đoản hơi chân tay lạnh, lưỡi nhợt, mạch hư đại mà khâu.
Trong nhãn khoa có trường hợp do khí thoát mà bị mù. Quyết khí thiên sách linh khu viết ” khí thoát thì mắt không tỏ”, ở đây nếu rõ sự hư thoát do tinh khí của năm tạng, bởi vì tinh khí của năm tạng bị suy kiệt, không còn gì để làm tươi tốt lên mắt gây nên, sẽ xuất hiện hai mắt khô rít, hai mắt không tỏ, hoặc là đồng tử giãn to.
Trong nhi khoa, vì trẻ em phú bẩm bất túc, nguyên khí hao tổn, thể trạng trĩ dương rất dễ bị ngoại tà xâm phạm mà sốt cao đột ngột, ra mồ hôi, cánh mũi phập phồng thở gấp, hoặc hạ lỵ không dứt, tinh thần ủy mị, đoản hơi không tiếp nối cũng là biêu hiện chứng khí thoát.
Cần phải nêu rõ chứng khí thoát có quan hệ chặt chẽ với ba tạng phế, tỳ, thận. Lâm sàng phần nhiều do tỳ khí hư, đột nhiên ra mồ hôi đầm đìa mà gây nên chứng này, cũng có khi do tỳ thận khí hư, bỗng dưng hạ lợi không dứt mà thành chứng này. Cho nên khi chứng khí thoát có thể do khí hư bất túc phát triển nên. Ra mồ hôi, có thể do khí hư không bền, tấu lý thư hở gây nên. Khí thuộc dương, dương khí không bảo vệ bên ngoài mà tiết ra ngoài cũng gây nên ra mồ hôi, cho nên ra mồ hôi đầm đìa thì tổn hại dương khí, khí thoát cũng có thể dẫn đến vong dương, đó là tình huống thống nhất. Mồ hôi là sự biến hóa của tâm dịch, khí hư không bền, ra mồ hôi không dứt, tân dịch tiết ra ngoài sẽ làm tân tổn thương, dịch mất đi nói lên khí thoát cũng có thể dẫn đến vong âm, đó là tình huống thứ hai. Đương nhiên, hạ lợi vô độ cũng có thể hao khí và thoát dịch, xuất hiện tình huốn chuyển qui hai loại nói trên. Lâm sàng nên coi trọng việc cấp cứu chứng khí thoát, đợi sau khi nguyên khí được phục hồi, nên nắm vững nguyên nhân tạo thành chứng bệnh và chứng trạng xuất hiện trong lâm sàng, hoặc là di chứng để tiến hành điều trị đối phó lại, nếu không chứng khí thoát sẽ lại xuất hiện lần nữa, bệnh thì càng nguy hiểm thêm.
Để lại một phản hồi