I. Khái niệm
Chứng khí hư là tên gọi chung, chỉ công năng Tạng Phủ trong cơ thể bị giảm sút, nguyên khí bất túc dẫn đến xuất hiện những trạng hư yếu toàn thân: nguyên nhân thường do tuổi cao, sau khi mắc bệnh, hoặc ăn uống mệt nhọc nội thương, hoặc do phú bẩm cơ thể bất túc là những nhân tố chủ yếu gây nên, thuộc phạm vi hư chứng.
Biểu hiện chủ yếu trên lâm sàng là tinh thần mệt mỏi yêu sức, đoản hơi, tiếng nói nhỏ, hụt hơi biếng nói, kém ăn hoặc sắc mặt trắng bệch, hoa măt chóng mặt, hồi hộp tự ra mồ hôi, chất lưỡi nhợt, mạch Hư Tế vô lực.
Chứng khí hư có thể trong các loại hư tổn của Tạng Phủ, nhất là các bệnh biến trong các bệnh “Năm tạng hư chứng”, “Biểu vệ không bền”, “Suyễn chứng”,…
Cần phân biệt chứng Khí hư với “Chứng dương hư” và “Chứng Khí hãm”.
II. Phân tích
Chứng khí hư trên lâm sàng, ngoài những đặc trưng thương gặp như tinh thần mỏi mệt và đoản hơi, còn tùy theo bộ vị Tạng Phủ phát bệnh khác nhau mà có những biểu hiện không giống nhau như:
1. Phế khí hư: Do phế chủ khí, công năng bị suy thoái ảnh hưởng đến tác dụng tuyên tán và túc giáng, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như đoản hơi, tinh thần mỏi mệt biếng nói, tiếng ho khó khăn, khạc đàm yếu, sợ gió, tự ra mồ hôi, rất dễ cảm mạo, điều trị theo phép bổ ích Phế khí, dùng bài bổ phế thang (Vĩnh loại kiềm phương) gia giảm.
2. Tỳ khí hư, do Tỳ chủ vận hóa, công năng bị suy thoái đến nỗi chất tính vi của thủy cốc không phân bố được, nguồn sinh hóa bị chèn ép, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như ăn kém không thấy ngon, tinh thần mỏi mệt yêu sức, bụng chướng đầy, đại tiện lỏng nhão, điều trị nên kiện Tỳ ích khí, dùng bài Sâm linh bạch truật tán (hòa tễ cục phương) gia giảm.
3. Can khí hư, do can chủ sơ tiết, công năng bị suy thoái ảnh hưởng tới sự sinh phát của Can khí, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như đoản hơi, tâm phiền hồi hộp không yên. Đởm khiếp đắng miệng, điều trị nên bổ khí ích trí làm mạnh can đởm, dùng bài an thần định trí hoàn.
4. Thận khí hư, do thận chứa tinh, công năng nạp khí bị suy thoái, thận tinh không hóa khí để nuôi thân hình, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như lưng gối mềm yếu, chóng mặt ù tai, hễ động là làm thở gấp, di tinh đái dầm, tiểu tiện trong dài… điều trị nên bổ ích thận khí, dùng bài Đại bổ nguyên tiễn hoặc Sâm cáp tán.
Đương nhiên vì tạng phù có mỗi quan hệ với nhau, bệnh biến của năm tạng cũng có thể ảnh hưởng lẫn nhau, xuất phát từ quan niệm chỉnh thể trong biện chứng lâm sàng thấy biểu hiện sự cùng mắc bệnh giữa Tạng với Tạng và giữa Phủ với Phủ như “Tâm tỳ khí hư”, “Phế tỳ khi hư”, “Tâm đản khí khiếp”, “Phế thận đều hư”.
Lại có trường hợp do khí hư mà gây nên “Biểu vệ không bền” vì Vệ khí không làm bền phần Biểu, tấu lý không kín đáo, ngoại tà nhân chỗ khí hư mà xâm nhập, xuất hiện các chứng trạng sợ gió tự ra mồ hôi, dễ bị cảm mạo, lông tóc dựng đứng… điều trị nên ích khí làm bền phần biểu, chọn dùng bài Ngọc bình phong tán.
Chứng khí hư gặp trong xuyễn chứng, thời kỳ đầu chủ yếu là Phế khí hư, biểu hiện chứng trạng khái suyễn, đoản hơi, về nguyên tắc điều trị, phương thuốc cũng giống như chứng Phế khi hư. Tiếp theo chủ yếu là Tỳ phế khí hư, có chứng suyễn gấp đoản hơi, kém ăn đại tiện lỏng, điều trị nên bổ thỏ sinh kim, chữa cả tỳ và phế, cho uống Bổ trung ích khí thang, Cuối cùng thì lấy chủ yếu là phế thận khí hư, có chứng trạng thở suyễn phải so vai, thì thở ra nhiều, thì hít vào ít, hễ động làm là suyễn tăng, ra mồ hôi, ớn lạnh chân tay lạnh, đây là do thận không nạp khí, điều trị nên ích thận nạp khí, túc phế bình suyễn, chọn dùng bài Kim quĩ Thận khí hoàn hoặc Nhân sâm hồ đào thang.
Chứng khí hư, trên lâm sàng nên nắm vững đặc điểm thể chất khác nhau, lứa tuổi khác nhau để biện chứng cho sá. Nói chung có thể chia hia tình huống: Một là thận hư suy, phần nhiều do tiên thiên bất túcm phú bẩm hay suy nhược, nguyên tinh không đầy đủ, tủy hải rỗng không gây nên. Thận là gốc của tiên thiên, chứa tinh nguyên để hóa khí thành hình, Thận hư thỉ cội rễ thiếu thốn, không có gì nuôi tinh để sinh ra xương, cho nên ở trẻ em thì thấy phát dục chậm chạp, răng tóc sinh trưởng muộn, trí tuệ kém, ăn uốn ít, xương mềm, tinh thàn ủy mị, mặt vàng thể trạng gầy, đại tiện lỏng và đái dầm, ở người lờn thì mỏi lưng, chón mặt, ù tai, dương nuy… Hai là Tỳ vị khí hư, phần nhiều do hậu thiên mất điều hòa, ăn uống không điều đọ, trác táng quá mức sự sinh hóa Tỳ Vị khí mất khả năng gây nên bệnh. Vị chủ việc hấp thụ ngấu nhừ đồ ăn, Tỳ chủ việc kiện vận sinh hóa, đón nhận đồ ăn để vận hóa thì nguồn sinh hóa của khí huyết không mất, hình khí đầy đủ mà khỏe mạnh. Lý Đông Viên cho rằng ăn uống không điều độ thì hại Vị, mệt nhọc quá mức thì hại Tỳ… và nêu ra “Sự đầy đủ của nguyên khí đều do khí của tỳ vị không tổn thương, mà sau đó mới tự dưỡng được nguyên khí. Nếu cái gốc là vị đã bị tổn thương mà nguyên khí cũng không đầy đủ tật bệnh từ đó mà sinh ra, nhận định khí củ Tỳ Vị bất túc là mấu chốt tạo nên chứng khí hư. Đồng thời nói lên Tỳ Vị khí hư là nguồn gốc thư nhất về mọi diễn biến của tật bệnh. Cho nên người tiên thiên bất túc và hậu thiên không điều hòa, rất dễ mắc chứng này. Nhưng hai loại này có nhân quả lẫn nhau, không cắt dời hoàn toàn. Khi lâm sàng biện chứng nên năm vững chủ, thứ. Cần nói rõ thêm: Mùa hạ nóng nực hầm hập, ép mồ hôi ra ngoài, rất dễ hao thương nguyên khí.
Trong quá trình diễn biến tật bệnh của chứng này, có thể biểu hiện bằng những chứng trạng lẫn lộn. Ví dụ do khí hư mà sự vận vận hành không thư sướng, có thể là khí hư chướng bụng, có chứng trạng chướng bụng thiểu khí, đại tiện lỏng loãng. Do khí hư mà ngoại tà sâm nhập, có thể là “khí hư phát nhiệt”, xuất hiện các chứng trạng cảm mạo phát nhiệt, xu thế nhiệt hoặc cao hoặc thấp, mệt mỏi đoản hơi, đờm nhiều mà nhớt, kém ăn, tinh thần mỏi mệt. Do khí hư mà tân dịch không phân bố khiến cho tạng phủ, cơ nhục và bì mao không được ấm áp mềm mại, có thể là “khí không sưởi ấm”, có chứng trạng gầy còm, tinh thần mệt mỏi, bì mao không nhuận, thể ôn hạ thấp, sức chống bệnh giảm sút… Do khí hư không hóa được thủy, ảnh hưởng đến công năng khí hóa của Tỳ, Phế, Thận và Tam tiêu, có thể là “khí hư nước tràn lan” xuất hiện chứng thủy thũng, tiểu tiện không lợi, nước tiểu giỏ giọt không dứt hoặc long bế. Do khí hư không thống nhiếp được huyết dịch, có thể là “khí không huyết nhiếp”, có chứng trạng đổ máu mũi, khạc ra máu, thổ ra máu, tiểu tiện ra máu, đại tiện ra máu, xuất huyết dưới da, có mối liên hệ âm dương hổ căn với nhau, cho nên khí hư mà không sinh hóa được huyết dịch, ảnh hưởng sự nương tựa sinh sôi của huyết, có thể là “khí huyết đều hư”, xuất hiện các chứng trạng chóng mặt hoa mắt, sắc mặt không tươi, hụt hơi biếng nói, hồi hộp, không nghĩ gì đến ăn uống, mạch Tế, chất lưỡi nhợt bệu. Vì khí hư lâu ngày, nguyên khí tổn thất lớn, còn có thể biểu hiện các tình huống “trung khí hạ hãm”, “khí âm đều hư”,và “nguyên khí hư thoát” không thể nói hết được ở đây. Tóm lại vì tật bệnh biến hóa của chứng này rất nhiều, lâm sàng cần phân tích tiêu bản, trước sau, hư thực của chứng hậu mà phân tích.
Để lại một phản hồi