1.Khái niệm
Chứng khí hãm là tên gọi chung của các chứng trạng do tiên thiên bất túc, hậu thiên mất điều hòa tạo nên nguyên khí khuy tổn, sự thăng giáng của khí cơ thất thường, xuất hiện các chứng đặc trưng trung khí hạ hãm nâng lên yếu sức, nó là bệnh biến thường gặp ở bệnh khí hư , phần nhiều thấy trong nội thương tạp bệnh
Biểu hiện chủ yếu trong lâm sàng là đoản hơi yếu sức tinh thần mệt mỏi, ngại nói , bụng hơi chướng trệ ỉa lỏng kéo dài, thoát giang, âm đĩnh, chất lưỡi nhạt bệu, mạch tế hoãn vô lực
Chứng khí hãm thường trong các bệnh Tiết tả, Vị quản thống, Thoát giang, Âm đĩnh
Cần chẩn đoán phân biệt với các Chứng khí thoát, chứng Thanh dương không thăng, chứng khí hư và chưng Thạn khí không bền.
2.phân tích
Chứng Khí hãm trên lâm sàng, vì nguyên nhân và bộ vị gây lên bệnh biến khác nhau cho nên biểu hiện cũng không giống nhau.
-Ví dụ như chứng này có thể gặp trong bệnh tiết tả khong gừng dẫn đến bệnh Cửu tiết, phân nhiều do ăn uống mệt nhọc nội thương tỳ vị ,Vị hư thì không khả năng ngấu nhừ đồ ăn, Tỳ hư thi không vận hóa được, bệnh lâu ngày nguyên khí khuy tổn, trrung khí hạ hãm, đại trườn mất chức năng chuyền hóa và cũng mất khả năng cố sáp, xuất hiện chứng đại tiện lỏng loãng, ỉa chẩy lâu không ngừng, hạ lợi vô độ ,đại tiện són ra mỗi khi trung tiện, kèm theo tinh thần mệt mỏi biếng ăn, bụng dưới trướng đầy, chất lưỡi nhạt , rêu lưỡi mỏng nhớt mạch trầm mà tế nhu vô lực. điều trị theo phép ôn sáp cố thoát,bổ ích nguyên khí
-chứng khí hãm cũng gặp trọng bệnh vị quản thống thuộc hư, phần nhiều do ăn uống không điều độ, tư lự thương tỳ, tỳ không thăng không còn khả năng vận hóa chất tinh vi củ thủy cốc để nuôi tạng phủ, chân tay các khớp, sẽ dẫn đến trung khí hạ hãm, có trứng trạng toàn thân gầy còm.Vị quản chướng đầy và đau mà chủ yếu là chướng, sau khi ăn thi khó chụi hơn, sa nội tạng, có thêm các chứng chóng mặt, hoa mắt, tinh thần mỏi mệt, chất lưỡi nhợt, mạch tế vô lực điều trị theo phép ích khí kiện tỳ thăng đề trung khí.
-Trong bệnh thoát giang thường gặp chứng khí hãm, phần nhiều do cao tuổi mà nguyên khí hao tổn, đại tiện khó phải cố sức rặn mà không co lên được hoặc ỉa chảy mà đại trường nhão gây ra, có chứng trạng sau khi đại tràng thoát giang. không có sức tự co lên được, ấn lên lại tụt xuống ,mặt vàng mệt mỏi, lưỡi nhạt bệu, mạch tế.Điều trị lên bổ ích nguyên khí, thăng đề hạ hãm.
-Bệnh âm đĩnh do trung khí hạ hãm không thăng lên gây lên, phần nhiều gặp ở người thai sản quá nhiều,hoặc sức mang vác nặng mệt nhọc quá độ, từ đó mà nguyên khí bất túc, bào mạch bị tổn thương, tôn cân bị nhãom, có chứng trạng bụng dưới nặng trệ, sa tử cung, sắc mặt vàng úa, mệt mỏi v.v.. điều trị nên ích khí bồ bổ chân nguyên nâng bào cung lên,
-Chứng khí hãm là một biểu hiệ lâm sàng trong quá trình bệnh biến của chứng khí hư, thường gặp ở người thể trạng phú bẩm bất túc, hình thể cao gầy hoặc hàng ngày ăn uống không điều độ, phòng lao quá mức, số lần sinh đẻ quá nhiêù, gặp nhiều ở lứa tuổi trung niên trở nên. Người phụ nữ nguyên khí bất túc thường ảnh hưởng đến xung nhâm, Xung là Huyết hải, Nhâm chủ về bào thai. Nếu xung nhâm không được nuôi dưỡng trung khí hạ hãm thì bào mạch không có sự dàng buộc, không những chỉ thấy âm đĩnh mà có thể thấy bụng dưới trướng trệ, thai động không yên, lậu thai và chứng hoạt thai.Trẻ em bị rất ít chứng khí hãm, nhưng không tuyệt đối, lâm sàng cũng có thể thây chứng khí hãm như tỳ hư ỉa chẩy kéo dài hoặc thóp mụ hãm xuống như hang hốc .
Biểu hiện chủ yếu của chứng Khí hãm là tỳ khí không thăng, trung khí hạ hãm cho nên có quan hệ với tỳ vị rất mật thiết .Nhưng khí thuộc dương, tỳ không tăng tiến thêm bước nữa sẽ tạo lên tỳ dương không mạnh làm cho thủy thấp nghẽn lại, thấp tụ lại sinh ra đàm ẩm ứ đọng ở trong mà sinh ra bệnh .Trung khí hạ hãm tiến thêm một bước nữa là tỳ liên can tới Thận, hình thành các chứng thận khí không bền mà xuất hiện đái sót đái dầm, hoặc tiểu tiện không tự chủ. Chứng này vì trung khí hạ hãm mà tỳ hư mất sự vận chuyển, nguồn sinh hóa ở trung tiêu thiếu thốn, khí không sinh huyết dẫn đến huyết hư,dẫn đến chứng trạng khí huyết đều hư như chóng mặt , hồi hộp. Đồng thời vì trung khí hạ hãm, nguyên khí bất túc sẽ tạo lên tình trạng khí không nhiếp huyết, xuất hiện các chứng xuất huyết như đại tiện ra huyết, kinh nguyêth ra quá nhiều.v.v..
3.Chẩn đoán phân biệt.
-Chứng khí thoát với chứng khí hãm, cả hai đều do khí hư phát triển mà thành, cơ sở gây lên bệnh biến là Khí hư. Chứng Khí thoát đa số gặp ở loại bệnh phát sinh đột ngột hoặc thời kỳ cuối của bệnh mạn tính, do nguyên khí hư suy sau khi bị mất huyết quá nhiều, khí theo huyết thoát, là nguyên tố phát bệnh, biểu hiện là do mồ hôi đầm đìa, hoặc tinh thần ủy mị, hơi thở không tiếp nối, sắc mặt trắng bệch, chất lưỡi mền không thè ra được, đại tiểu tiện không tự chủ, mạch vi tế muốn tuyệt. Chứng khí thoát là biểu hiện lâm sàng của các chứng bệnh khí hư ở giai đoạn nghiêm trọng ở giai đoạn nghiêm trọng, điểm chủ yếu để phân biệt với chứng khí hãm là :
1)cơ sở tạo nên bệnh biến của hai chứng đều là khí hư, nhưng chứng này chủ yếu gặp ở bệnh mạn tính, còn chứng khí thoát không chỉ gặp ở thời kỳ cuối của bệnh mạn tính, mà cũng gặp ở bệnh cấp tính như chứng theo huyết thoát khi mất nhiều máu, hoặc chứng thoát trong bệnh biến của chứng trúng phong
2) Cơ chế của chứng Khí thoát là nguyên khí suy thoái, chính khí hư thoát, mà cơ chế bệnh của chứng khí hãm là nguyên khí bất túc, tỳ không thăng , ttrung khí hạ hãm
3) xu thế bệnh của chứng khí thoát nguy cấp, bệnh tình nghiêm trọng, biểu hiện chủ yếu là chính khí toàn thân suy kiệt, có thể thấy chứng mồ hôi ra đầm đìa sắc mặt trắng xanh, tinh thần ủy mỵ, miệng há tay xòe, đại tiểu tiện không tự chủ. Chứng khí hãm thì xu thế bệnh từ từ, bệnh tình dai dẳng biểu hiện chủ yếu là sự thăng cử nguyên khí ở trung hạ tiêu vô lực, xuất hiện các chứng nặng trệ, thoát giang hạ lợi.v.v..
4)Chứng khí thoát cần dùng ngay phép ích khí cứu thoát, cứu vãn tình thế nguy ngập trong khoảng khắc, nếu không kịp thời cấp cứu, tiên lượng rất xấu.Chứng khí hãm thời nên nâng trung khí, điều trị từ từ.
-Chứng thanh dương không thăng với chứng khí hãm, cả hai là bệnh chứng khí cơ không bình thường tuy đều biểu hiện công năng thăng cử của Khí giảm thoái, nhưng chứng thanh dương không thăng chủ yếu là nói đối lập với trọc âm không giáng, thanh dương với trọc âm là một cặp mâu thuẫn trong biến hóa bệnh lý chúng thường có ảnh hưởng lẫn nhau. Chứng thanh dương không thăng ở các chứng trạng chủ yếu ở thượng tiêu như hoa mắt ,chóng mặt, ù tai tai điếc.có chứng trạng ở trung hạ tiêu, bụng đầy trướng, đại tiện lỏng loãng.v.v. chẳng qua chứng thanh dương không thăng chủ yếu là lấy thanh dương không thăng, mà lấy trọc âm không giáng làm thứ yếu, cho nên trên lâm sàng phần thấy các chứng trạng hư thực lẫn lộn . Cũng có thể do đờm trọc ngẽn ở trong , thanh dương bị chèn ép mà xuất hiện các chứng hư ngực bụng chướng đầy, nôn mửa buồn nôn, chóng mặt hoa mắt, chứng khí hãm chủ yếu là tỳ khí không thăng trung khí hạ hãm, lâm sàng có các chứng trạng chủ yếu ở trung và hạ tiêu, và hoàn toàn thuộc hư chứng.
-Chứng khí hư với chứng khí hãm, cả hai đều là hư chứng, mà chứng khí hãm phần nhiều từ chứng Khí hư biến hóa ra, cả hai có mối quan hệ nhân quả. Chứng khí hư chủ yếu là chỉ nguyên khí toàn thân bất túc, công năng của Tang Phủ suy thoái, có điều bộ vị của bệnh tật khác nhau nên biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau.
-Chứng khí hãm tuy có thể có những chứng trạng của chứng khí hư như tinh thần mệt mỏi yếu sức, thở đoản hơi thuộc nguyên khí bât túc, nhưng cái nổi bật nhất vẫn là trung khí hạ hãm, có những biểu hiện nguyên khí vô lực không nâng lên được , có chứng trạng bụng dưới nặng trệ,ỉa chẩy thoát giang, sa dạ con.v.v.cho nên bộ vị bệnh biến chủ yếu ở trung tiêu và hạ tiêu. Đấy là cơ sở để phân biệt chứng khí hư với chứng khí hãm.
-Chứng thận khí không bền với chứng khí hãm cũng đều là hư chứng và có những chứng trạng ở hạ tiêu như ỉa chẩy bụng đầy trướng.
Nhưng thận khí không bền có thể do chứng khí hãm phát triển nên, tức là do tỳ khí hư mà liên lụy đến Thận khí hư, xuất hiện chứng cửa của thận không bền thuộc về tỳ thận khí hư, xuất hiện chứng của thận khong bền thuộc về tỳ thận khí hư, cơ chế bệnh của hai chứng này có mối quan hệ nhất định. Nhưng chứng của thận không bền nên có thể phản ảnh ở chỗ Thận khí không sưởi ấm được tỳ thổ mà có chứng ngũ canh tả mà tỳ thận đều hư, có chỗ khác nhau với chứng đi tả lâu ngày của chứng khí hãm. Lịa có thể do thận khí bất túc, cửa bên dưới không bền, bàng quang không co thắt, không chứa đựng được thủy dịch , không ngăn được nguồn nuốc lên đi tiểu không tự chủ hoặc di niệu và chưng ban đêm đi tiểu lần ở người cao tuổi . cũng có thể biểu hiện nguyên nhân phòng thất vô độ tinh nguyên suy cạn , thận khí hư làm cho cửa tinh không bền gây lên di tinh, hoạt tinh, lâm trọc. Vì vậy điểm phân biệt chủ yếu hai chứng này :Một là bộ vị bệnh biến của chứng thận khí không bền là ở tạng Thận hạ tiêu, bộ vị bệnh biến của chứng khí hãm là ở tỳ vị trung tiêu . Hai là biểu hiện lâm sàng của chứng thận khí không bền chủ yếu là ở chỗ có những chứng trạng Thận khí mất khả năng sưởi ấm giúp cho sự vận chuyển, khí hóa mất chức năng, cửa phía dưới không bền thườn kiêm chứng lưng gối mỏi. Chứng khí hãm có chứng trạng chủ yếu tỳ khí không thăng, trung khí hạ hãm, thường kiêm chứng tinh thần mỏi mệt, ăn kém
Để lại một phản hồi