Chứng đàm ứ câu kết

Khái niệm

Chứng Đàm ứ câu kết là tên gọi chung cho những biểu hiện lâm sàng do Đâ’m trệ với ứ huỳết câu kết làm trở ngại khí cơ gây nên bệnh. Chứng này là do Tạng Phủ công năng mất đièu hòa, huyết ứ tụ thấp sinh đàm hoặc đàm trệ làm trỏ ngại Huyết gây nên ứ; Đàm trệ với ứ huyết .giao kết gây nên

Biểu hiện lâm sàng của chứng nầy vì bộ vị ứ nghẽn khár nhau, cho nên biểu hiện chủ yếu là tê dại nậng tìề, đau nhói không di chuyển, bệnh lâu không khỏi, gặp lạnh đau tăng, gặp ấm dễ chịu; Trong cơ thể có khối sưng cố định khỗng di chuyển; tinh thân không tinh táo hoặc cuồng táo không yên, chất lưỡi tía tối, rêu lưỡi dầy nhớt.

Chứng Đàm ứ câu kết thường gặp trong các bệnh Hung tý, Tý chứng, Phế ung, Cuồng chứng, Đi chứng T ru Ìg phong, Trưng Hà v.v.

Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Phong đàm, chứng Huyết ứ.

 

Phân tích

Chứng Đàm ứ câu kết thường gập trong nhộng bệnh dàng dai lâu ngày, chữa chạy khá lâu không khỏi; trong tật bệnh khác nhau sẽ biểu hiện chứng trạng khác nhau.

Chứng Đàm ứ câụ kết xuãt hiện trong bẽnh Hung Tý, có chứng trạng vùng ngực đau nhói xiên sang lưng, điểm đau cci định, ban đêm bị nhiễm lạnh thường đau nặng hơn, khạc nhổ và ho ra đờm rãi, phất lưỡi tía tối, rêu lựỡi dàỵ nhớt; Dậy,,là do hàn đàm với ứ huyết câu kết ở vùng ngực, ìạc mạch không thông, khí cơ bị nghẽn trệ gây nên; điều trị nén hóa đàm trừ ứ, tuyên Tý thông dương, cho uộng Quát lâu bán hạ giới bạch thang (Kim qui yéu lược) hợp với Huyết phủ trục ứ thang (Y lâm cài thác).

Trong Tý chứng xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết có các chứng trang đặc trưng cục bộ đau nhói kịch liệt, cố định không di chúyển, gặp hàn thi đau tăng, ban đêm cũng nặng hơn, kiêm cả chứttg tê dại nặng nề, sác da tía tối, các khớp xướng biển dạng; Dây là do Đàm ứ ngăn trệ, lạc mậch không thông gây nên; điều trị nên hóa đàm trìl ứ, thông lạc giảm đau, cho uống Hoạt lac đan (Thái bình hùệ dân hòa tễ cục phương)

Trong bệnh Phế ung xuất hiện chứng Dàm ứ câu kết, có chứng trạng đặc điểm ho mửa ra đờm mủ có mùi tanh hôi hoạc khạc ra huyết, vùng ngực trướng đầy đau nhđi, VẾ cơ chế bệnh tà tà nhiệt đờm trọc và ứ huyết úng tác’ở trong Phế, kết lại thành ung, điều trị theo phép quét đàm trừ ứ, thanh nhiệt khai kết, cho uống bài Thiên kim vi hãnh thang (Bi cáp thiên kim yếu phường) hợp với Tiếu hoạt lạc thang (Thương hàn luận).

Trong bệnh Cuòng xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, biểu hiện lâm sàng ngọàị việc gào thét la mắng cuồng táo không yên, hoặc ngớ ngẩn đàn độn, tinh thần nhạt nhẽo thuộc phạm vi tinh thần thất thường, còn kệm theo sác mặt tối xạm, chát lưỡi tíạ tối, mạch Tràm Sậc là những đặc trưng do ứ huyết ngãn trở ở trong; đây là do ,đàm và ứ phạm vào Tâm, quấy rối thần minh gây nên; Diều trị nên Trấn Tâm quét đàm, hoạt huyết hóa ứ, chọn dùng phương Diên cuồng mộng tỉnh thang (Y lăm cải thác).

Trong di chứng Trúng phong xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, ngoài những chứng trạng bán thân bất toại, tay chân tê dại, miệng mát méo xếch nối năng khd khăn, còn có các đặc điểm là sắc mặt tối xạm chất lưỡi tía tối và có nốt xuất huyết; Đây là do đàm ứ câu kết, lạc mạch tẽ nghẽii, khi không lứủ thôĩíg, huyết không thấm nhuần, chân tay mất sự nuôi dưỡng gây nên; điều trị nên ích khí hoạt huyết, khư phong htíổ đàm, chò uống bàỉ Bổ dương hoàn ngũ thang (Y làm cải thác) gia Viễn trí, Xương bồ, Nam tinh, Bạch phụ tử v.v,

– Trong bệnh’ Trưng Hà xuất hiện chứng Dàm ứ câu kết, có chứng trạng trong bụng co’ khối sưng ấn yào không di chuyến, bụng trướng hoặc đau nhói, lưỡi tối rêu nhớt v.v. Đây ỉà đàm ứ câu kết tích lại thành hòn khối; điều trị nêu hoạt huyết hóa đàm, tiêu trưng tán hết, cho uống Miết giáp tiễn hqàn (Kim qui yếu lược) hoặc Hóa tích hoàn (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc).

Chứng Đàm ứ câu kết thường gặp ở .người Dương khí bất tức; Dương khi bất túc thi việc vận chuyển khí bị yếu, thủy thấp ứ đọng thì thành đàm, huyết đi bị nghẽn thì thành ứ, huống chi đàm trệ làm trở ngại huyết mà thành huyết ứ, huyết ứ thấp trệ thì làm cho đàm ngưng trệ; sau khi đàm á đã hình thành, vì sự chu lưu cùa huyết không thu sưỚBg lại càng làm hao tổn phần Dương. Loại người Dương hư có kiêm cả đàm ứ câu kết này, ngoài những chứng trạng do đờm ứ câu kết ra, còn cđ thể xuất hiện những chứng hậu về dương hư như tinh thần mỏi mệt, đoản hơi biếng nói, sợ lạnh, cìiấn tay lạnh, miệng nhạt không khàt, tiểu tiện trong đại tiện nhão v.v. Đàm ứ là âm tà, về ban đém hoặc gập lạnh, âm lại được âm hỗ trợ cho nên cỉiứng trạng nặng thêm. Biểu hiện chủ yếù của chứng dương hư là tinh thần mỏi mệt, đoản hơi biếng nóỉ, sợ lạnh tay chân lạnh, miệng nhạt không khát, tiểu tiện trong đại tiện nhão. Gặp tinh huống này, dùng thuốc hổa đàm hoạt huyết trong điều trị chứng Đàm ứ câu kết thường phối ngũ với thuốc ôn dương ích khí. Chứng Đàm ứ câu kết nói chung bệnh tình khá dài, dằng dai khó khỏi, ở tuổi thanh niên thường biểu hiện trong các bệnh Tý chứng, Phế ung và chứng Cuồng; ở người cao tuổi thường biểu hiện trong cắc bệnh Hung tý hoặc di chứng Trúng phong; Cho nên biểu hiện lâm sàng chứng Đàm ứ câu kết vì mỗi người có khác nhau, điền trị cũng phải “nhân nhân chế nghi”.

 

III, Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Phong đàm và chứng. Đảm ứ câu kết đều cố những chứng trạng cộng đồng 6ủa di chứng Trúng phong nhừ bán thân bất toại, chân tay tê dại, miệng mát méo lệch, khố nổi năng v.v. Cho nên phải chẩn đoán phấn biệt kỹ Chứng Đàm ứ câu kết ìà do công nãng của Tạng Phủ không điều hòa, khí huyết tân dịch vận hành bị trở ngại hoặc là Tỳ thấp sinh đờm, đờm trệ thành huyết ứ, hoặc huyết bị nghẽn trở mà thành ứ, ữ huyết ngẩn trở ộ trong,, tân dịch vận Ịiậnh ịkhông thồng mà sinh, đàm. Đàm với ứ câu kếỉ, làm trở ngại khí cơ gây nên bệnh.

Đ&m ứ câu kết trong dỉ chứng Trúng phong có đặc điểm là sắc mặt tối xạm, lưỡi tía có nốt’ ứ huyết lă những biểtL hiện do huyết ứ. Chứng Phong đàm là do nội thương nhọc mệt, Tỳ mất sự kiện ván, đàm trọc từ trong sinh ra, Can phong kèm với Đàm len lỏi trong lạc mạch gây nên bệnh. Tựu trung di chứng Trúng phong trong họng có tiếng đàm, chóng mặt hoa mốt, rêu lưỡi dầy nhớt, mạch Huyền Hoạt đó là hiện tượng phong đàm quấy nhiễu ở trên. Nếu phân biệt theo bệnh trình, thì di chúng TVúng phong của chứng phong đàm xuất hiện sám hơn, bệnh trình khá ngắn; Còn chứng Đà,m ứ câu kết xuất hiện về sau, bệnh trình khá dầu. Chứng Phong đàm để ỉâu ngày chữa khổng khỏi, đa số phát triểnthành chứng Đàm ứ câu kết.

– Chứng Huyết ứ với chửng Đàm ứ câu kết, cả hai chứng có thể biểu hiện chứng trạng cộng đòng như đau nhói, điểm đau cố định, trong cd thể có hòn khối hoặc là cuồng táo không yên Chứng Huyết ứ là do những nguyên nhân khí hư, khí trệ và huyết hàn, khiến cho huyết lưu hành không trôi chẩy phát sinh ngưng trệ không thông. Đặc điểm lâm sàng của chứng Huyết ứ là da đẻ khô ráp, môi và móng tay chân tím tái, chất lưỡi tía tối hoậc có nốt xuất huyết, mạch Sác. Còn chứng Đàm ứ câu kết có đặc điểm chung là cục bộ tê dại nặng nê, chất iưỡi và rêu lưỡi dầý’ nhớt. Một số người bệnh biểu hiện chứng Huyết ứ, nếu dùng phép hoạt huyết hóa ứ điều trị lâu ngày không khỏi, tuy chưa có biểu hiện là đàm trệ, cũng nên suy nghĩ tới quan hệ giữa Đàm với ứ, cứ theo phép chữa chứng Đàm ử cáu kết mà điều trị thường có kết quả.

IV. Trích dẫn y văn

– Chứng Hung tý tức là VỊ tý. Phía trước ngực đày tức ngưng kết không thông, ản vào mửa ra ngay không nuốt trôi xuống cổ, hoặc có lúc gây nôn; đó là chứng Hung tý. Nguyên nhân chứng này là do ăn uống không điều độ, .đói no thất thường khiến đàm ứ đọng huyết ứng trệ, Trung tiêu bị vẩn đục nên xuất hiện chứng trạng khổng ân được và đau khó chịu (Tý chứng – Chửng nhăn mạch trị) ..

– Chứng thứ bẩy là Thực đàm, ăn uống khồng tiêu hoặc kiêm có ứ huyết, tạo nên hang hốc, đến nỗi bỉ đầy không thông, nên uổng bài Hoàng qua lâu hoàn (Dầm ẩm nguyên lưu – Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc ị.

– Đàm kiêm với ứ huyết tạo thành hang hốc, gây nên bỉ, mạch Trầm Sác, tâu ngày không khỏi. Chứng này chỉ những người lo buồn ức uất mới mấc, nên điêu trị loại Huyết uất; dùng các vị thuốc như Hồng hoa, Quất hồng, Dan bì, Hương phụ, Giáng hương, Tô mộc, Phỉ chấp và Dồng tiện ‘Bì mãn – Loại chúng trị tài). Bệnh đã tích lũy vài năm, thế tất phạm vào Lạc. Đây không phải là Hư chứng, bởi vì bệnh kéo dài thỉ thể lực xút kém, cứ án vào thì khó chịu; hoặc là tình trí uất kết, đàm nhân khỉ trệ, khí nghẽn trở làm huyết ứ, các đường mạch nghịch loạn, mửa ra những thứ uế trọc mà đại tiện thì bí, Thày thuốc thấy mình mẩy chân tay lạnh cho là hư thoát, dùng Lý trung và Phụ tử đế’ ôn lý phù dương. Nghĩ như Dương khí thuộc vô hỉnh, huống chi bệnh phát có nguyên nhân, dứt khoát không phải là Dương vi khí t hoát Nhớ lại nãm đtí mác bệnh, nghĩ là Can bệnh, dùng đến thuốc sơ thông khí huyết đều kết quả, nếu bệnh chưa hoàn toàn khỏi, chỉ vì thèm muốn ản uống quá nhiều. Mùa Hạ chuyên dùng thuốc thuộc Thái âm Dương minh; Bây giờ nơi đau ở Trung quản, lâu ngày chất vẩn đục tụ lại, nên dùng các vị đạm vị nhạt mà nuôi dưỡng nhẹ nhàng. Dầu tiên dùng tới Trúc lịch chế thuốc viên, dùng vào buổi sáng, lập riêng phương pháp thông ứ, dùng các vị để làm vâên như Tô mộc, Nhân sâm, Uất kim, Đào nhân, Quý vĩ, Bá tử nhàn, Hổ phách, Xung uất, Hồng tảo nhục (Diệp Thiên si y án – Thanh đại danh y y án tinh hoa).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*