Chứng huyết nhiệt

Khái niệm

Chứng huyết nhiệt là tên gọi chung cho trường hợp huyết phận bị nhiệt hoặc nhiệt t’à xâm phạm huyết phận, biểu hiện lám sàng tả thương ầm. dồng huyết, quây nhiễu thần minh. Chứng này đa số do ngoại cảm nhỉệt tà, tình chí ùất kết, ăn uống thiên lệch gây nên.

Lâm sàng chủ yếu cđ các chứng trạng tâm phiền hoặc vật vã phát cuồng, miệng khát mà không muốn uống mình nóng về đêm nặng hơn và phắt ban, mửã ra huyết, mũi xuất huyết đại tiểu tiện ra huyết, phụ nữ thỉ kinh nguyệt quá nhiều hoấc bàng lậu, chất lưới đỏ tía, mạch Tế Sác.

Chứng Huyết nhiệt thường gặp trong cac “ôn nhiệt bệnh”, “Huyết chứng”, “Kinh nguyệt đến sớm”, “Băng lậu*, ‘Đinh sương tẩu hoàng”, “Sừơng dương”…

Cần phân biệt với “chứng Huyết táo”, “chứng Huyết nhiệt huyết ứ”.

 

Phân tích.

Chứng huyết nhiệt xuất hiện trong nhiều loại tật bệnh, nhưng trong bệnh ÔĨ1 nhiệt, khái niệm “nhiệt vào huyết thất* với những tật bệnh khác lại khống hoàn toàn giống nhau, biểu hiện lâm sàng đều cđ đặc điểm nhất định, kể cả phép tiỊ củng khác nhau, cần phân tích rõ ràng.

Bệnh ôn nhiệt thuộc chứng huyết nhiệt cổ hai loại biểu hiển chứng hậu: Một là chứng ở Doanh phần, có những chứng trạng đậc điểm như phát sốt nặng về ban đêm, miệng không khát lám, tâm phiền khồng ngủ được, ban chẩn nổi ỉờ mờ, nặng hơn thì tinh thàn hôn mê nói sàng, chát lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác v.v. nổi lên bệnh biến dõanh âm bị tổn thương, Tâm thần bị quấy rối. Dây là thuộc loại nhiệt tà từ Khí phận truyền vào Doanh phận, hoặc do Vệ phần nghịch truyền mà có, đó là giai đoạn tà khí hâm vào sâu rất nghiêm trọng của bệnh Ôn nhiệt. Bệnh truyền vào Doanh phận, rõ ràng là chính khí không chống đỡ nổi, tà khí vào sâu, phạm vào Tâm bao ồ bên trong, quấy rổị thần minh hoặc bệnh liên lụy đến Quyểt âm Can Kỉnh; Điều trị nên theo phép “thấu nhiệt chuyển khí” thanh doanh tiết nhiệt, cho uống bài Thanh doanh thang (ôn bệnh điều biện). Hai là chứng ở Huyết phần, biểu hiện chứng trạng nhiệt nặng, hôn mê nói sảng hoặc co giật, thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, ban chẩn, chất lưỡi tia xẫm hoặc rêu lưỡi tróc mảng sáng bóng, mạch Hư Sác hoặc Tế Sác là những, đậc trưng bởi thương âm, động phong, động huyết và háo huyết. Da số do chứng ở doanh phần không giải, chuyển vào huyết phàn, hoặc là tà nhiệt ở Khí phần vào thẳng Huyết phần gây nên. Tà nhiệt vào huyết phần so với nhiệt ở doanh phần lại càng nặng hơn, đó là giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng trong quá trình phát triển của bệnh Ôn nhiệt; cả Tâm, Can, Thận đều bị bệnh, rỗ ràng hàm nghla khác hẳn với các chứng nhiệt độc huyết phần của dương chứng trong mụn nhọt thuộe ngoại khoa; Điều trị nên thanh nhiệt lương huyết, cho uống bài Tê giác địa hoàng thang (Bị cáp thiên kim, yếu phương) hoặc theo phép mát Can dẹp phong, cho uống Linh dương câu đằng thang (Thông tục Thưcmg hàn luận)-, Hoặc theo phép tư âm dưỡng huyết, bình Can dẹp phong, dùng bài Gia giảm phục mạch thang (Òn bệnh điều biện) Đại định phong châu (Ôn bệnh diều biện).

Nếu tật bệnh cđ tính xuất huyết (Huyết chứng) thuộc về chứng Huyết nhiệt, vô luận là thổ huyết, nục huyết, các huyết, tiện huyết, niệu huyết, đều có đặc trưng tà sác huyết đỏ tươi, lưỡi đỏ, mạch Sác. Phần nhiều do ngoại cảm phong nhiệt táo tà, nhiệt làm thương Phế Lạc; Hoặc là án nhiều thửc cay nóng, nhiệt nung nấu ở VỊ Trường; Hoặc là tình chí không toại, ngũ chí hóa hỏa; Hoặc là phiền lao quá mức, Tâm hỏa quá thịnh chuyển nhiệt xuống Tiểu trường; Hoặc là ốm lâu Can Thận âm khuy, tướng hỏa vọng động, “Huyết gặp nhiệt thì sôi (sủi)”, nhiệt làm thương huyết mạch, bức huyết đi càn, “duong lac tdn thương thi huvết tràn ra ngoài; ảm lạc tđn hại thì huyết tràn ỏ bẽn trong”. Trươifg Cảnh Nhạc nói. “Động phần nhiều là do hỏa, hỏa thịnh thì bức huyết đi bừa”, về điều trị phải lấy lương huyết chi huỵết làm phép chữa cơ bản. Nhưng vì nguyên nhân bệnh, vị trí các bệnh không giống nhau, đièụ trị cụ thể cũng không hoàn toàn giống nhau. Như chứng Khái huyết, phép chữa nêu tư âm nhuận Phế, lương huyết chỉ huyết, cho. uống Bách hợp cố kim thang (Dẫn theo phương của Triệu Chắp Yêm trong Yphương tập giải). Nọc huyết và Thổ huyết, điều trị theo phép Thanh vị tả hỏa, lương huyết chỉ huyết, dùng bài Ngọc nữ tiễn (Cảnh nhạc toàn thư) gia giảm; hoặc thanh Can tả hỏa, dùng bài Long đởm tả can thang (Lan thát bí tàng) gia giảm. Nếu Tiện huyết, điều trị theo phép thành nhiệt trừ thấp, hòa doanh chỉ huyết, dùng bài xích tiểu đậu đương qui tán (Kim qui yếu tược) hợp với Địa du tán (Nhản trai trục chỉ phương). Nếu niệu huyết, điều trị theo phổp thanh tâm tả hỏa, cho uống bài Tiểu kế ẩm tử (Tế sinh phương) gia giảm; hoặc theo phép tư âm thanh hỏa, lương huyết chi huyết, cho uống Tri bá địa hoàng hoàn (Y phương khảo) gia giảm.

Nếu Đinh sương tẩu hoàng, ung độc hãm ở trong, thì có biểu hiện ở chính nơi phát bệnh tình trạng sưng lan tỏa rất nhanh, sắc da đỏ tối, kèm theo chứng trạng phát sốt phát rét run rẩy, phiền táo không yên, thậm chí hôn mê co giệt, chất lưỡi đỏ tía, rồii lưỡi vàng khô, mạch Hồng Sác v.v. đây là do đinh độc tẩu tán, độc tà phạm vào huyết phận tấn công vào tạng phủ gây nên, điều trị theo phép lương huyết thanh nhiệt giải độc, cho uống Ngũ vị tiêu độc*ẩm (Y tông kim giám) hợp với Tê giác địa hoàng thang (Bị cấp thiên kim yếu phương) gia giảm. Tóm lại, trong những tật bệnh khác nhau của chứng huyết nhiệt, chứng trạng biểu hiện cũng có những đặc sấc riêng, lâm sàng cổ thể căn cứ vào những đặc điểm chứng bệnh nói trên để mà biện chứng luận trị.

Kinh huyết, mang thái và sinh nở của phụ nữ đều lấy huyết làm gốc, cho nên chứng huyết nhiệt phần nhiều gặp ở phụ nữ, phần tihiều là cơ thể vốn nội nhiệt lại ăn Ề[uá nhiều thức cáy nóng, hoặc cảm nhiễm nhiệt tà, hoặc phẫn nộ quá mức, khí uất hổa hỏa, hoặc âm hư nội nhiệt, đến nỗi nhiệt quấy rối Xung Nhâm, bức huyết đi càn, đặc điểm chủ yếu là vòng kinh thường thíấy sớm, ỉượng kinh nguyệt nhiều, sắc đỏ xẫm hoậc tía, chất dính, nặng hơn thì băng lạu không dứt, tâm phiền khát nước, thích uống nước lạnh, táo bón,, tiểu tiện vàng. Nếu là âm hư huyết nhiệt, phàn nhiều có thêm chứng về chiều lòng bàn tay chân nóng, hai gò má, đỏ.

Trong bệnh ôn nhiệt, trong quá trình diễn biến bệnh có chứng trạng của huyết phận thường thấy hai tình ỉuống: Một là vì nhiệt’tà ở huyết làm tiêu hao Gan huyết Thận, tinh, chân âm suy hao, tân dịch khô kiệt, xuất hiện triệu chứng vong âm như da dẻ nhãn nheo, môi se lưỡi liệt, mát trũng nhìn lờ đờ, gò mố đỏ, táy chân quyết nghịch, trong Tâm rung động hỏa động, hoặc tinh thần lơ mơ thích ngũ, lưỡi tía ít rêu hoặc sáng bóng không có rêu, mạch Tế Xúc v.v. Hai là vì âm tổn hại liên lụy đến dương, tà nhiệt cũng có thể làm thương dương hạo khí, cho nên hiện tượng vong dương thường phát sinh kế tiếp sau khi vong âm, do

đố mà sốt cao vã mồ hôi, sau khi mất nhiều huyết hoặc thổ, tả dữ dội, cũng thường dẫii đến tai biến vong dương; xuất hiện các triệu chứng Dương khí muốtt thoát như sác mật trắng xanh, ra nhiều mồ hôi trong mà lạnh, sợ lạnh Itàm éo, chân tay không ấm, thần thức lơ ihơ, hơi thở nhỏ khẽ, mạch Vi ttráổn tuyệt. Diều trị nên cứu vãn ngay dương khí sắp hết, cứu vắn được một phần dương khi, còn hi vọng chút sống mỏng manh.

 

Chẩn đoán phân biệt.

Chứng;jmyếfc. táo-váí chứág-huyđt Nhiệt với Táo đều aễ hao thương tân huyết, trong nguyên nh&n bệnh và cơ chế bệnh có quan hệ chặt chẽ vởi nhau, thường táo và nhiệt đống thdi xuất hiện. Chò nèii trên lâm sàng có chỗ biểu hiện gần giống nhau, nhưng cũng cố chỗ phân biệt. Nối thẻo nguyên nhân bệnh, chứng huyết nhiệt phần nhiều do cảm nhiễm nhiệt t‘à, hoặc đo thất tình uất kết, uất mà hổa hồa, hoặc ăn nhiều thức beo ngọt’cay nóng, giúp Cho hỏa nung nấu nhiệt, nhiệt vào huyết phận ‘gây nèn. Lại vì huyết phận nhỉệt thịnh, khuấy động ^tâm thần, cho nên có chứng tâm phiền, thậm Ếhí vật vã phát cuồng. Tà nhiệt ở huyết phận, huyết thuộc âm, chồ nên inỉnh nóng về ban đêm nặng hơn; Âm huyết bị hao tổn, cho nên miệng khố. Nhiệt thịnh làm hâo huyết, không bổ xung đày đủ cho mạch, cho nên mạch Tế Sác. Tà nhiệt thịnh ở huyết phận, nhiệt dồn ép huyết lạc chò nên cơ thể đổ hiầu mũi, thổ huyết, niệủ huyết hoặc xuất huyết dưới da v.v.

Chứng huyết táo phần nhiều do tuổi cao mác bệnh lâu ngày, tinh huyết suy thiếu; hoặc do huyết nhiệt dẫn đến táo, huyết ứ kết ở trong, huyết dịch không được nhu dưỡng gây nến.

Nói theo cơ chế và lý luận từ huyết nhiệt dẫn đếri táo, một là do nhiệt tà hun đốt đẫn đến huyết dịch keo đặc mà thầnh đ, ứ huyết kết ở trong, huyết dịch ít và khô mất sự nhu dưỡng, tít đó mà hình thành huyết táo; Hai là nhiệt thịnh hao huyết thương âm tân huyết thiếu thốn, nhiệt hun đốt huyết bị khô mà hóa táo. Như vậy có thể thấy huyết nhiệt là nhân tố bệnh lý trực tịếp dẫn đến Táo, mà Huyết táo là kết quả của bệnh lý nhiệt bệnh phát triển nên. Biểu hiện lâm sàng có đặc điểm là gày còm, da dẻ nhăn nheo trÓQ vẩy, ngứa ngáy, lông tóc xơ xác không nhuận, táo bón, lưỡi ráo không tân dịch, mạch Tế Sác v.v Chẩn đoán phân biệt giữa Huyết táo và Huyết nhiệt không mấy khó khăn.

Chứng Huyết nhiệt huyết ứ với chủng Huyết nhiệt đều. thuộc phạm vi huyết nhiệt. Chứng huyết nhiệt huyết ứ cũng gọi là chứng Huyết nhiệt câu kết với nhau, .nguyên nhân phàn ạhiều là cảm nhiễm ngoại tà hoặc là nội thương tình chí, hoặc là công nàng Tạng Phủ không điều hòa, hoặc là ứ huyết lưu trệ, uất lại hóa nhiệt, đến nỗi huỵết nhiệt câu kết với nhau mà thành bệnh. Lâm sàng nđi chang ctí các chứng đầu đau nhự dùi đâpi, phát nhiệt, hoặc xuất huyết, hoặc có hòn cục sưng, chất lưỡi đỏ tối, mạch Sác v.v. Nếu huyết nhiệt câu kết ở Trường Vị hoặc Hạ tiêu, có khả nâng có các chứng nói sảngr bụng trưâng đày cự án, đại tiện khô sác đen dễ di, hoặc bụng dưới đau thát, tiểu tiện tự lơi, người bệnh như cuồng hoặc phát cuồng (chứng Xúc hụyết). Phụ nữ nhiệt vào huyết thất, nhiệt câu kết với huyết, thì thấy vùng bung dưới hoặc ngực sườn đày rán, nóng rát như sốt rét, về đêm thì nói sảng, kinh nguyệt không thỡng v.v. như vậy thi thấy đã có chứng ứ huyết, lại biểu hiện cả chứng huyết nhiệt mới được gọi là chứng Huyết nhiệt câu kết, rõ ràng là khác với chứng Huyết nhiệt đơn thuần, có thể phân biệt được.

 

Trích dẫn y văn

Loại mất huyết, gặp nhiệt thì tràn lên, gặp lạnli thi đọng lại, Đởm gặp Vị nhiệt, qua đường mạch mà tới nậo. Bởi vì dương lạc bị tràn thì đi càn, ở mũi là đổ máu cam, ỏ lỗ mồ hôi là nhâm nhấp; Hai tình huống khác nhau, đó là cái diễn biến của nhiệt quyết huyết bị trào ra vậy (Tỵ nục môn – Thánh tế tổng lục).

Chứng huyết đi càn chưa bao giờ khôọg do nhiệt mà phát sinh; Bởi vì huyết gặp nhiệt thì trào lên, huyết và khí đều nhiệt, huyết theo khí dâng lên nên mới gây ra thổ huyết, nục huyết (Thổ nục – Tế sinh phương).

Huyết nhiệt gây nên các chứng Thổ, Nục, Khái, Các, Niệu huyết; phát sốt về buổi chiều, phụ nữ hành kinh trước kỳ, mạch Huyền mà Sác, phéị> điều trị nên làm cho mat (Huyết chứng – Chứng trị văng bổ)

Huyết nhiệt hên điêu trị bằng thuốc thanh thuổc lương. Nhiệt thì gây nên mụn nhọt lở ngứa, chẩy máu răng, chẩy máu mũi, là viêm lợi răng, be mật lưỡi xuất huyết, là lưỡi sưng, tiểu tiện đỏ giỏ giọt, là báng huyết, kinh nguyệt đến trước kỳ, là nhiệt vào huyết thất, xĩch du đan, là mật đột ngột sưng đau. Nên dùng các thuốc chua lạnh, đáng lạnh, mặn lạnh và cay mát để trừ thực nhiệt (Quyền 17. Tạp bệnh nguyẻn lưu tẻ chúc).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*