Dạ cẩm: “Khắc tinh” của bệnh đau dạ dày và viêm loét miệng

 Cây Dạ cẩm

Từ lâu, người dân tộc đã sử dụng Dạ cẩm như một thứ lá cây chữa viêm loét lưỡi họng hiệu quả. Do đó nó còn có cái tên là cây “Loét miệng”. Dựa trên kinh nghiệm đó, năm 1962 bệnh viện Lạng Sơn đã thử nghiệm đưa cây này vào chữa những cơn đau do viêm loét dạ dày và thấy hiệu quả rất rõ. 

1. Đặc điểm cây Dạ cẩm

1.1. Mô tả thực vật

Dạ cẩm còn có những tên khác như: loét mồm, đất lượt, đứt lướt, chạm khẩu cắm. Nó có tên khoa học Hedyotis capitellata Wall. ex G. Don. var. mollis (Pierre ex Pit.), thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).

Đây là một loại cây bụi trườn, thường mượn cây khác để cuốn vào. Chiều dài trung bình thân cây khoảng 1 – 4m. Thân cây già sần sùi, màu xám mốc, không có lông. Thân non màu xanh hay tím, có lông đứng. Có nhiều đốt, khoảng cách các đốt 5 – 6cm, mấu to.

Lá Dạ cẩm là dạng lá đơn, mọc đối nhau. Lá hình trái xoan, đầu lá nhọn, dài từ 5 – 15cm, rộng từ 3 – 5cm. Có 4 – 5 cặp gân phụ. Mặt trên màu lục sẫm, có những nốt sần sùi nhỏ và có lông ngắn, mặt dưới màu lục nhạt, lông dài và nhiều, phiến dày. Cuống dài 3 – 4mm. Lá kèm gian cuống hình gai nhọn, 5 thùy, dài 3 – 7mm, có lông.

Hoa Dạ cẩm hình sim, mỗi sim có 6 – 12 hoa tụ lại thành hình cầu ở đầu cành hay kẽ lá. Hoa có màu trắng hoặc trắng vàng. Ống tràng có nhiều lông  nhỏ màu trắng bên trong, cánh hoa hình giáo cuộn ra ngoài. Bốn nhị dài 4,5 – 5mm, chỉ nhị tròn, dính họng tràng. Bao phấn hẹp dài, chia 2 thùy. Vòi nhụy dài 3,5mm, có lông ở 1/3 giữa vòi, đầu tách 2, bầu dưới 2 ô, có nhiều noãn đính trung trực.

Quả nang, tròn, vỏ có nốt sần nhỏ, cuống dưới 1mm, khi khô nứt vách rồi chẻ ô. Có nhiều hạt nhỏ nâu đen, có góc cạnh.

 Cây Dạ cẩm
Cây Dạ cẩm

Mùa hoa thường bắt đầu từ tháng 4 – 11, mùa quả tháng 11 – 12.

Người ta thường nhầm lẫn Dạ cẩm có 2 loại thân tím và xanh. Nhưng thực tế trên cùng một cây xuất hiện 2 màu tím và xanh thay đổi theo mùa trong năm, chứ không phải 2 loại Dạ cẩm. Khoảng từ tháng 4 – 9, thân cây màu xanh. Từ tháng 10 – tháng 3 năm sau thân cây màu tím.

1.2. Phân bố

Dạ cẩm mọc hoang dại chủ yếu tại một số tỉnh trung du và miền núi phía Bắc nước ta như Cao Bằng, Lạng Sơn. Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Giang,… Hiện tại đa phần chỉ thấy cây mọc hoang, chưa thấy đặt vấn đề trồng theo quy mô.

2. Bộ phận dùng, thu hái, chế biến, bảo quản

Người ta thường dùng lá và ngọn non để làm thuốc, có thể dùng toàn cây nhưng công dụng yếu hơn. Hầu như có thể thu hái quanh năm.

Dược liệu hái về đem rửa sạch, phơi sấy khô để dùng dần hoặc đem nấu cao. Cần cất giữ thuốc nơi sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, tránh nơi ẩm thấp côn trùng ăn làm hư hại thuốc.

 Dược liệu Dạ cẩm khô
Dược liệu Dạ cẩm khô

3. Thành phần hóa học trong cây Dạ cẩm

Nghiên cứu thấy trong thân, lá, rễ có Alkaloid, Saponin, Iridoid, Tanin, riêng ở rễ có thêm Anthranoid.

  • Trong đó hàm lượng Alkaloid toàn phần trong thân, lá là 0,14%, rễ là 1,98%.
  • Hàm lượng Saponin ở thân, lá là 0,658%, rễ 0,511%. Phần đường của Saponin là Glucose và Galactose.

4. Công dụng của Dạ cẩm

Dạ cẩm có vị ngọt hơi đắng, tính bình. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm dịu cơn đau, tiêu viêm, lợi tiểu. Nó thường được người ta sử dụng để chữa:

  • Những cơn đau do viêm loét dạ dày, bao gồm cả các biểu hiện ợ hơi, ợ chua, khó tiêu, đầy bụng,… do viêm loét dạ dày mang lại.
  • Chữa lở lưỡi, loét miệng, làm mau lành các vết thương, giúp chóng lên da non.
  • Còn có thể phối hợp với cỏ Bạc đầu, lá răng cưa giã đắp trị đau mắt.
  • Phối hợp với vỏ Đỗ trọng nam chữa bong gân.

Để sử dụng Dạ cẩm, người ta có thể dùng tươi, phơi khô sắc nước uống. Hoặc trên thị trường cũng đã có chế phẩm cao Dạ cẩm hay cốm Dạ cẩm, sử dụng khá hiệu quả.

Bài viết hôm nay đã giới thiệu đến cho bạn đọc thêm một vị thuốc của dân tộc nữa, vị Dạ cẩm. Nhưng nếu muốn sử dụng Dạ cẩm để chữa bệnh, người bệnh cần có sự thăm khám và tư vấn từ thầy thuốc để có thể dùng thuốc đúng người, đúng bệnh, tránh những hậu quả không mong muốn. 

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*