TẮC RUỘT
– Biện chứng đông y: Tà nhiệt kết ở tràng vị, dịch của trung tiêu bị khô, khí thượng và hạ cũng không thể thǎng giáng, uất mà hóa nhiệt.
– Cách trị: Tả hạ táo thực túc thanh lý nhiệt.
– Đơn thuốc: Đại thừa khí thang gia vị.
– Công thức:
Đại hoàng 9g | Chỉ thực 9g |
Xuyên phác 6g | Phục linh 12g |
Nguyên hồ 15g | Bạch thược 12g |
Cam thảo 3g | Nguyên minh phấn 18g (chiêu với nước thuốc) |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
– Hiệu quả lâm sàng: Thư XX, nam, 23 tuổi, quân nhân phục viên. Đau bụng trên kèm theo nôn dữ dội. Bệnh mới đầu đau bụng, phát triển thành đau từng cơn nặng dần, từng nôn ra chất có màu như cà phê, đã 3 ngày không ǎn, bụng trướng, bí đại tiện, không bị cúi gập người. Đã qua điều trị ở bệnh viện địa phương không kết quả nên chuyển đến đây. Người bệnh đã 2 nǎm trước từng bị mổ vì bị viêm ruột thừa kèm viêm phúc mạc. Kiểm tra cạnh rốn, sờ thấy có u dài. Tây y chẩn đoán là tắc ruột do dính, đã thụt tháo, dùng atropin để chống co thắt, giảm áp lực dạ dày, ruột, truyền dịch tĩnh mạch vẫn không đỡ đau bụng, mà bụng lại trướng đầy, cự án, chất lưỡi hơi đỏ, cuống lưỡi rêu trắng, mạch hoạt sác. Vào viện đến ngày thứ 3 mới đầu chữa bằng thuốc đông y. Cho dùng bài Đại thừa khí thang gia vị, uống 1 thang lúc 4 giờ chiều hôm đó, đến 11 giờ đêm lại đại tiện 2 lần, phần nhiều, rất thối, liền theo đó bớt đau bụng. Sáng sớm hôm sau ǎn một bát cháo loãng, khám lại, đổi bài thuốc Tiểu thừa khí thang gia giảm, gồm: Chỉ xác 9g, Xuyên phác 8g, Bạch thược 18g, Phục linh 12g, Nguyên hồ 15g, Cốc nha 20g, Cam thảo 3g, Tô ngạnh 12g. Cho uống 2 thang, mọi chứng đều tiêu hết. Bệnh nhân ra viện. Cấp cho mang về 3 thang Tứ quân tử thang thêm Bạch thược, Chỉ xác, Nguyên hồ để củng cố.
110. TẮC RUỘT NGƯỜI GIÀ
– Biện chứng đông y: Trung khí bất túc
– Cách trị: Giáng khí chỉ thống, tư nhuận bổ trung, nhuận tràng thông tiện.
– Đơn thuốc: Trầm hương ẩm.
– Công thức:
Trầm hương 6g | Mật ong 120g |
Mỡ lợn 120g |
Bỏ Trầm hương vào 300ml, nước sắc đến còn 200ml thì đem uống trước, sau đó mới uống mật ong và mỡ lợn: 2 vị này đun sôi để cho âm ấm rồi uống. Nếu bệnh nhân bị nôn nặng, trước khi uống thuốc có thể tiêm 0,25mg atropin vào 2 bên huyệt Túc tam lý. Nếu vừa uống thuốc vào đã nôn ra thì phải uống bù lại lần nữa.
– Hiệu quả lâm sàng: Đồng XX, nam, 65 tuổi, xã viên. Vào viện cấp cứu ngày 21-4-1972. Người bệnh đau bụng đã 2 ngày, nôn oẹ, không đại tiện, người mệt mỏi, yếu ớt. Kiểm tra tỏ ra là bệnh cấp tính, bụng mềm, quai ruột nổi rõ, vùng bên phải rốn ấn đau. Khám nghe rõ nhu động ruột tǎng, chiếu X quang thấy có nhiều mặt nước phẳng hình cái cốc. Sau khi vào viện cho truyền dịch, đồng thời hút hết các vật chứa trong dạ dày. Đến 8 giờ tối cho uống nước Trầm hương, sau uống mật ong, mỡ lợn. Tới sáng sớm hôm sau, bụng sôi réo, đại tiện được một lần. Bớt đau đớn và đầy trướng, khoảng 9 giờ sáng liên tiếp đại tiện 2 lần, các chứng tiếp đó đều biến hết. Đến ngày thứ 3 khỏi bệnh, cho ra viện.
– Bàn luận: Bệnh tắc ruột ở người già, vì tuổi cao sức yếu nên phần lớn bệnh nhân không muốn mổ, mà thích được dùng thuốc đông y hơn. Thực tiễn cho thấy bài thuốc trên dùng chữa bệnh tắc ruột của người già kết quả rất mỹ mãn. Bài thuốc này là do nhà đông y Lý Quang Diệu truyền lại cho. .
111. TẮC RUỘT NGƯỜI GIÀ
– Biện chứng đông y: Tì hư thực trệ.
– Cách trị: Cấp hạ tôn âm.
– Đơn thuốc: Gia vị đại thừa khí thang.
– Công thức:
Sinh đại hoàng 10g | Nguyên minh phấn 5g |
(Xuyên) hậu phác 5g | (Giang) chỉ thực 10g |
Lai phục tử 15g | Thảo quả nhân 3g |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
– Hiệu quả lâm sàng: Chu XX, nam, 60 tuổi, nhân viên. Khám lần đầu ngày 11-2-1962. Người bệnh tuổi cao sức yếu. Do ǎn no mà bụng trướng đau, đến giữa trưa bụng đau kịch liệt, trǎn trở không yên, chân tay tê dại, nôn chất ứ đọng, tuy nôn nhiều lần song bệnh không giảm, tuy mót đại tiện nhưng không ỉa được. Đi cấp cứu ở một bệnh viện, đo thân nhiệt 38o C, bạch cầu 1300/mm3, trung tính 82%, lymphô 18%. Chiếu X quang cho thấy bị tắc ruột ở vị trí cao. Vì không muốn phẫu thuật nên chuyển đến đây xin chữa. Bệnh nhân sắc mặt trắng bệch, vẻ đau đớn, trán đẫm mồ hôi, sờ vào bụng đau đớn không chịu được. Lưới đỏ ít tân dịch, rêu mỏng vàng, khát muốn uống nước, mạch huyền sác. Điều trị phải cấp hạ tồn âm để làm phủ vận chuyển và giảm đau. Cho uống Gia vị đại thừa khí thang. Dùng 1 tháng, thay áo mấy lần, đi ngoài ra phân thối khẳn, hết hẳn đau, bệnh nhân tự thấy bụng nhẹ rỗng, muốn ǎn, thần khí mệt yếu, mạch hoãn, lưỡi khô ít rêu, phủ khí đã thông, vị khí đã giáng. Tuy đã cứu được thuyền giữa dòng nước xiết, nhưng người già không thể công phạt thái quá, đổi sang dùng bài thuốc điều bổ: Tày đảng sâm 12g, Bạch truật (sao) 10g, Vân phục linh 10g, Cam thảo (sống) 5g, Hoàng kỳ (chích) 12g, Đương quy thân 10g, Quảng trần bì 5g, Sài hồ (mềm) 5g, Lục thần khúc 10g. Uống 5 thang, mọi chứng đều hết, người khôi phục bình thường.
– Bàn luận: Trương Trọng Cảnh luận rằng với chứng Dương minh phủ thực chỉ dùng bài Đại thừa khí thang để cấp hạ tồn âm ở người khoẻ thực chứng, bệnh nhân trong trường hợp này tuổi cao, khí huyết đều suy, tì vị hư nhiều, gốc là chứng Hoàng long thang, nhưng cho dùng bài Đại thừa khí thang thêm Lai phục tử để tǎng thêm sức tẩy xổ, lại dùng Thảo quả để hạn chế những thuốc trên, khi thực tà đã khử hết thì việc điều lý sẽ nhanh chóng và đạt hiệu quả tốt.
Để lại một phản hồi