KHỔ SÂM VÀ TẦN BÌ
Công hiệu khác nhau
Khổ sâm và tần bì đều là vị thuốc thanh nhiệt, táo thấp, và thanh nhiệt táo thấp rất hay, chữa khỏi bệnh lỵ. Nhưng khổ sâm khí vị đều trọc, thanh nhiệt và táo thấp có mạnh hơn, lại có công dụng thông tâm phúc kết khí, lợi huyết mạch, chủ trị bệnh. Khứ phong, sát trùng, trong điều trị chuyên dùng vào tâm, can, vị, đại tràng, bàng quang. Còn tần bì thanh nhiệt, táo thấp, lực kém hơn khổ sâm. Nó thanh can, làm sáng mắt, tính kiêm thu sáp, chỉ băng, chỉ tả lại là sở trường, lại hay bình suyển, khỏi ho.
Chủ trị khác nhau
1 – Khổ sâm chủ trị huyết lỵ, tràng phong họ huyết đới hạ.
Tần bị chủ trị huyết băng, tả tiết.
Khổ sâm thanh nhiệt, táo thấp, chỉ lỵ. Nên thích nghi dùng chữa các chứng bệnh, thấp nhiệt, huyết lỵ, tiện huyết, tràng phong hạ huyết.
Như “nhân tồn đường kinh nghiệm phương” trị huyết lỵ bất chỉ. Dùng khổ sâm sao tiêu, tán mạt, tẩm nước viên bằng hột ngô, mỗi lần uống 15 viên với nước cơm.
“Ngoại khoa đại thành” bài khổ sâm địa hoàng hoàn (khổ sâm. địa hoàng hòa mật viên) trị bệnh trĩ lậu ra máu.
“Toàn quốc trung dược hối biên” trị âm đạo trích tràng, âm dạng hạ huyết. Dùng khổ sâm, vỏ cây hoa dâm bụt (mộc cần bì) hoàng bá, khô phàn, đều nghiền nhỏ như phấn; lại thêm các nhà học giả nghiên cứu dùng sa sàng tử giã thành cao mềm lấy vải nóng bọc lại đắp vào âm đạo mỗi ngày 2 lần.
Tần bì thanh nhiệt táo thấp, tính kiêm thu sáp không những dùng chữa các chứng thấp nhiệt. đới hạ mà còn dùng chữa chứng huyết nhiệt dẫn đến băng ở bên trong. Bụng đau đi tả.
Như “Bản thảo hối biên” trị phụ nhân xích, bạch đới. đến huyết băng không cầm được. Dùng tần bì, đan bì, đương quy thân, dùng rượu rửa, sao khô nghiền nhỏ, hòa một viên tầng hột ngô to, dùng nước trắng uống.
“Hắc long giang thường dùng trung thảo được thủ sách” bài trị phúc tả, dùng tần bì cho thêm đường đun nước uống.
2 – Khổ sâm chủ trị hoàng đảm
Tần bì chữa các tật bệnh của mắt
Khổ sâm thanh nhiệt, lợi niệu, dùng chữa thấp nhiệt, uẩn kết thành bệnh hoàng đởm, tiểu tiện không lợi.
Như “bổ khuyết trừu hậu phương” trị cốc đàm vừa mới ăn xong không lâu, trong lòng phát uất không yên rồi sinh ra bệnh phát hoàng, dùng ngay khổ sâm, long đởm hoặc dùng một vị khô sâm ấy bỏ vào túi gián lại.
Tần bì thanh can, minh mục; chuyên dùng chữa các bệnh can nhiệt mắt có nhử rồi đến mắt đỏ, đau. sưng. Như “Cậu hiệu phương” trị bệnh mắt đỏ, có nhử, sưng chỉ cần dùng một vị tần bông, cũng có thể phối hợp với chi tử, hoàng liên, thuyền thoái.
3 – Khổ sâm chủ trị chứng hồ hoặc, mê hoặc hay nghi ngờ Tần bì chữa suyễn thở.
Khổ sâm thanh nhiệt nhuận táo, sát trùng độc hại gây nên bệnh nghi ngờ. hoặc mê hoặc người khác như con cáo – hôi nách
Như “Kim quỹ” bài khổ sâm thang (khổ sâm) dùng đun nước tắm rửa và hun để chữa chứng hồ hoặc sinh lở loét, vi trùng đã đục khoét ở tiền âm, bệnh cổ họng khô.
Tần bì bình suyễn, chỉ khái – Dùng một vị tần bì thái thành miếng, chế thành nước mà uống.
4 – Khổ sâm chủ trị tim, bụng kết khí, tịch tụ. Tần bì chữa chứng tim đập mạnh, sợ hãi.
Bệnh có nguyên nhân là do thấp nhiệt gây nên, lại nhân bị tích trệ từ lâu, hoặc có báng trong bụng gặp rét lạnh mà gây nên, hoặc ăn uống không tiêu mà gây nên, hoặc do huyết ứ gây nên. Vị thuốc này vốn vị đắng vào huyết phận, tính nó thông hoạt, đi xuống cho nên chữa được các bệnh ấy.
Như Tràng thang (khổ sâm, địa hoàng. ý dĩ nhân, kha tử, lăng giác, hải phù thạch, hải cáp phấn, tử sâm. thị sương, hương thung) để chữa bệnh. Khổ sâm khí vị đều trọc, tẩy rửa sạch sẽ, vị đắng đi vào huyết phận, tính đi xuống mà thông lợi cho nên có khả năng làm tan được khí tích ở tâm phúc.
Như “bị cấp thiên kim yếu phương” trị bệnh tim đau bạo bệnh, dùng ngay khổ sâm đun nước bỏ bã, pha rượu vào lại đun nữa. lấy đậu vàng đun khô tán mạt. rồi hòa vào nước thuốc. viên bàng hạt ngô to. dùng rượu uống mỗi lần ba bốn mươi viên.
Tần bì thanh can. bình mộc (can mộc) dùng chữa can nhiệt sinh chứng tim đập mạnh, lo sợ.
Như “tiểu nhi toát yếu” trị trẻ con kinh giản, sốt nóng biến chứng phát nhiệt, dùng ngay tần bì, phục linh, cam thảo, đãng tâm dùng nước sắc thang uống.
Đặc thù sử dụng khác nhau
Lâm sàng báo: Khổ sâm chữa được bệnh viêm phổi của trẻ con. Dùng 200% khổ sâm chế thành thuốc nước tiêm dưới da, mỗi ngày 2 lần. Nếu tim yếu, ho suyễn bạo bệnh, sốt cao, tim đập mạnh hô hấp thấy suy yếu, dùng thêm thuốc tây điều trị ngoài.
Căn cứ vào 129 trường hợp, xét thực đã cố kết quả, hiệu suất đạt 92% trở lên. Mỗi ngày dùng khổ sâm từ 6 đến 8 khắc sắc nước, để chữa bệnh run bụng đầy nước (phúc thủy). Hiện đã khảo sát 25 ca, sau khi phục thuốc hai ngày, 56 lần đi tiểu tiện tăng nhiều, vây quanh bụng giảm đi một ít, tạo điều kiện cho việc tiến hành phẫu thuật tỳ.
“Kinh huệ phương” trị bệnh đã ba mươi năm nhất thiết khí tích thành khối, bệnh lâu ngày sợ lạnh. Dùng khổ sâm hai cân, nước đồng tiện một đấu 2, đun cạn lấy 6 thăng, hòa với gạo nếp; bình thường dùng rượu uống để chữa, nhưng trong bụng các bệnh tật đều trị, dùng rượu phóng vào hai ba năm không phá được, đều phải tìm cách cứu người một cách nhanh chóng.( không hiểu viết gì)
“Toàn triển tuyển biên – bệnh ngoài bì phu”. Trị ngưu bì dùng tần bì từ một đến hai lạng; cho nửa chậu nước vào đun, lấy nước rửa chỗ đau . Mỗi ngày hoặc cách hai ngày đến ba ngày lại rửa một lần. Khi rửa phải dùng nước thuốc còn nóng. Mỗi lần nấu như thế có thể dùng rửa được ba lần. Rửa đến bao giờ khỏi thì thôi.
Để lại một phản hồi